Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần 8
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Tập 15
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang thứ mười bốn, hàng
thứ ba từ dưới đếm lên.
Chúng ta xem từ hàng
thứ ba, xem từ câu
cuối cùng trong trang trước.
“Thị cố Di Đà Yếu Giải vân: Thử chi pháp môn, toàn tại
liễu
Tha tức Tự, nhược húy ngôn Tha Phật, tắc thị Tha Kiến vị vong. Nhược
thiên trọng
Tự
Phật,
khước thành Ngă Kiến điên đảo” (V́
thế, sách Di Đà Yếu Giải viết: “Pháp môn
này chú trọng liễu giải Tha chính
là Tự. Nếu kiêng
không nói đến Tha
Phật, tức là Tha
Kiến chưa mất. Nếu khăng khăng coi trọng Tự Phật, sẽ thành
Ngă Kiến điên đảo”). Mấy câu này trong sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư có ư nghĩa rất sâu. Sở dĩ phàm phu rất khó thành Phật, mấu chốt là ở chỗ này: Nói chung là do chẳng buông phân biệt, chấp trước xuống được! Ở đây nói về phân biệt và chấp trước. Bất luận tu pháp môn nào,
do tập khí từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta rất dễ phạm sai lầm. Tổ sư đă giảng về pháp môn này rất hay: “Toàn tại liễu Tha tức
Tự”, “liễu” (了) là
hiểu rơ,
biết Tự và Tha bất nhị, Tha
là A Di Đà Phật, Tự là
chính ḿnh. A Di Đà Phật và chính ḿnh vốn cùng một Thể, là tự tánh Di
Đà. A Di Đà Phật do đâu mà có?
Do tự tánh biến. Ta do đâu mà
có? Cũng do tự tánh biến; ta và
A Di Đà Phật có cùng
một tự tánh.
Đạo lư này rất sâu, thật sự khế nhập cảnh giới này,
khẳng định chuyện này là thật, đó gọi là “chứng đắc”, trong Tông Môn nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến
tánh
thành Phật”. Tha Phật và Tự Phật là một, mười
phương tam thế hết thảy chư Phật đều do tự tánh này biến ra, hết thảy chúng sanh trong hư không pháp giới cũng do tự tánh này biến ra. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă giảng thấu triệt chuyện này, giảng hết sức rơ ràng! Quư vị hiểu chư Phật Như Lai và đông đảo chúng sanh có
quan hệ ǵ
với ta, hiểu rơ
ràng. Nói theo mặt quan hệ th́
là luân lư. Do
vậy, tại Trung Quốc, luân lư rất được coi trọng. Từ xưa tới nay, luôn
nhấn mạnh luân lư; luân lư là nói tới mối quan hệ giữa con người với nhau. Trong Phật pháp, luân
lư được giảng viên măn nhất. Không
chỉ giảng về quan hệ giữa con người với nhau, mà
quan hệ giữa con người và tất cả hết thảy động vật, quan hệ với tất cả hết thảy cây cối hoa cỏ, quan hệ với núi, sông, đại địa, mối quan hệ giữa các chiều không gian khác biệt trong hư không và
các sinh vật, [những mối quan hệ ấy] đều được [Phật pháp] nêu
ra toàn bộ. Có thể nói: Đại Thừa Phật pháp đă giảng luân
lư đến rốt ráo viên măn. Đặc biệt là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, chúng ta
thấy [các
phẩm] Thế Giới Thành Tựu và
Hoa Tạng Thế Giới đều giảng về luân lư. Làm thế nào để xử lư thật tốt đẹp những mối quan hệ ấy, đó là đức hạnh. Trong tự tánh vốn có trí huệ và đức tướng, xử lư đều chẳng ĺa
tự tánh,
từ Tánh Đức lưu lộ. Tổ tiên Trung Quốc đă thật sự khai quật được cốt lơi của Tánh Đức, cốt lơi ấy là Hiếu. V́ vậy, đối với văn hóa Trung Hoa,
nói tới điểm đặc sắc của Trung Quốc, dùng
một chữ Hiếu để nói! Trong Phật pháp, cũng là một chữ Hiếu này!
V́ thế, Phật pháp truyền đến Trung Quốc, bèn rất nhanh chóng dung hợp với văn hóa Trung Quốc thành một Thể, căn bản của chúng
là một, chẳng hai. Quư vị thấy phần Tịnh Nghiệp Tam
Phước trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật của Tịnh Tông,
câu đầu tiên là
“hiếu dưỡng
phụ mẫu”, câu thứ hai là
“phụng sự sư trưởng”.
Văn hóa truyền thống của Trung Quốc cũng lấy điều này làm
cơ sở, “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo cha mẹ, tôn
trọng thầy). Các
tôn giáo và
những nền văn hóa khác có
[quan niệm này] hay không? Có, nói thật ra th́
cốt lơi là
một. Do vậy, các
tôn giáo trên
thế gian có
thể đoàn kết, cùng một cốt lơi mà! Chẳng có ǵ
không nói tới hiếu đạo. Những tôn
giáo và văn hóa khác
chẳng giảng rơ ràng như Phật và
Nho, họ nói
đến “ái” (ḷng yêu
thương): Chúa yêu
thương người đời, Thượng Đế yêu thương người đời; họ nói đến nhân từ. Trên thực tế, đều là cùng một ư
nghĩa, một cốt lơi.
Có
thể thật sự giác ngộ chẳng dễ dàng! Sau
khi giác ngộ, những tri kiến ấy chẳng c̣n, sẽ không c̣n
nói Tha Phật hay Tự Phật, chẳng c̣n
ư niệm ấy
nữa! Có ư niệm ấy chẳng phải là đối lập hay sao? Có Tự, sẽ có
Tha. V́ vậy, Ngẫu Ích đại sư nói: “Nếu kỵ húy Tha Phật, chưa quên Tha Kiến”.
Nếu thiên trọng Tự Phật, đó là Ngă Kiến điên đảo, chưa quên
Ngă Kiến. Tự và Tha đối lập sẽ biến thành hai
pháp, chẳng phải là Phật pháp. Giống như Huệ Năng đại sư ở chùa
Quang Hiếu, [chùa
này hiện thời] là Quang Hiếu Tự[1], gặp gỡ pháp sư Ấn Tông lần đầu tiên,
pháp sư Ấn Tông thỉnh giáo Tổ: “Khi
Ngài ở Hoàng Mai, Ngũ Tổ lăo nhân gia giảng Thiền Định và
giải thoát như thế nào?”
Huệ Năng đại sư giải thích, giảng giải Thiền Định và giải thoát, giải thoát có nghĩa là
Niết Bàn,
Huệ Năng đại sư nói: “Thiền Định
và giải
thoát là hai pháp, hai pháp chẳng phải
là
Phật
pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Nên giải thích câu nói
này của đại sư như thế nào?
Chúng ta có thấu hiểu hay chăng? Pháp sư Ấn Tông c̣n thấy hai pháp, tức là vẫn c̣n
có phân biệt, chấp trước; Huệ Năng đại sư đă dung hội cả hai thành một Thể. Không chỉ Thiền Định và giải thoát là một, không hai,
mà hết thảy các pháp đều là một. Pháp
thế gian và
Phật pháp cũng là một. Giác ngộ th́ gọi là
xuất thế pháp, hay Phật pháp;
chưa giác ngộ th́ gọi là thế gian pháp. Đúng là
một, không hai. Sau khi giác ngộ, chẳng t́m được hai; v́ vậy, nhập Bất Nhị môn,
v́ sao?
Phân biệt, chấp trước, ngay cả khởi tâm động niệm đều không có, lấy đâu ra hai
pháp? Mấy câu này giảng về pháp môn Bất Nhị; nói theo cách bây giờ, đây là triết học cao cấp trong kinh Phật. Chúng ta nghe xong có thể hiểu th́ “nghe hiểu” chính là
lănh hội lời giảng của cổ đức. Nghe không hiểu là chưa lănh hội. Lănh hội được th́ tốt lắm, chưa lănh
hội cũng chẳng sao, cứ thật thà niệm Phật là được rồi. Vâng lời, thật sự thật thà
vâng lời, quư vị thật sự tu, chắc chắn có
thể thành tựu, đấy là bí quyết. Chúng ta học đoạn này tới đây.
Chúng ta xem đoạn kế tiếp, tức đoạn thứ tư: “Đinh, ám hợp diệu
đạo, xảo nhập
vô sanh” (thứ tư, thầm hợp đạo mầu, khéo
nhập vô sanh).
Đây là nói pháp môn Tŕ
Danh Niệm Phật này tương ứng với minh tâm kiến tánh, tuy c̣n chưa đạt đến tŕnh độ ấy, nhưng có cùng
một phương hướng, một mục tiêu, chắc chắn tốt đẹp, đó là “ám
hợp diệu
đạo”. “Xảo nhập
vô sanh”: Vô
sanh là kiến tánh, thật sự thấy hết thảy các pháp chẳng sanh diệt, sanh diệt chẳng hai.
Pháp môn này là phương tiện thiện xảo khiến cho chúng ta cũng có thể khế nhập
[vô sanh].
Xin xem kinh văn trong trang mười lăm, hàng
thứ nhất. “Phù vô niệm dữ vô sanh, viễn
phi phàm phu chi sở năng” (vô niệm và vô
sanh vượt xa ngoài khả năng của phàm phu).
Vô niệm là vô sanh, chúng ta phải thấu hiểu ư nghĩa ở đây: Có
sanh th́ sẽ có niệm! Chúng ta chưa phải thuộc cảnh giới này, mà cũng chưa nhập cảnh giới này, nhưng người đă học Hoàn Nguyên Quán sẽ hiểu vũ trụ xuất hiện như thế nào?
Vạn vật xuất hiện như thế nào?
Do ư niệm mà có,
ư niệm vừa khởi, chúng
(vạn vật và
vũ trụ) bèn
hiện tiền; ư niệm chẳng có, ngay lập tức, chúng cũng chẳng c̣n! Di Lặc Bồ Tát nói ư niệm sanh diệt vô cùng nhanh, trong một giây có bao nhiêu niệm? Có một ngàn hai trăm tám mươi triệu, có nhiều niệm dường ấy. Ngài nói: Do niệm niệm tiếp nối, nên
dường như có sanh; nếu ư niệm “có một niệm” này đă đoạn, cảnh giới vô sanh sẽ hiện tiền. Vô sanh là ǵ? Vô sanh là
Thường Tịch Quang, trong ấy chẳng có hiện tượng sanh diệt, chẳng sanh, chẳng diệt. Huệ Năng đại sư đă thấy, quư vị thấy trong bài
báo cáo gồm năm câu
của Ngài, câu thứ hai là:
“Hà kỳ tự tánh, bổn vô sanh diệt” (nào
ngờ tự tánh
vốn chẳng sanh diệt). Ngài đă thấy, chứng đắc, Ngũ Tổ mới truyền y bát cho Ngài, chẳng truyền cho Thần Tú,
v́ Thần Tú
có sanh diệt: “Thân thị Bồ Đề thụ,
tâm như minh kính đài” (thân như cội Bồ Đề, tâm như đài gương sáng), có sanh, có diệt, c̣n người ta (Huệ Năng) thật sự thấy vô sanh. V́ vậy, cảnh giới không giống nhau.
Cảnh giới ấy chẳng phải là cảnh giới phàm phu, mà là cảnh giới của ai?
Trong giáo
pháp Đại Thừa thường nói: “Viên Giáo Bát Địa
Bồ
Tát, ly nhất thiết
tâm
ư thức
phân biệt,
thỉ danh chân đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Bậc Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, ĺa hết thảy tâm ư thức, phân biệt, mới thật sự được gọi là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn). “Vô sanh” là Vô Sanh Pháp Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn là ǵ? Nhẫn là tán thành.
Quư vị đă thấy, cũng chẳng có chút hoài nghi nào, quư vị chứng nhận điều ấy. Do vậy, “nhẫn” (忍)
có nghĩa là
tán thành, khẳng định. Đức Phật giảng pháp Vô
Sanh “hết thảy các pháp chẳng sanh, hết thảy
các pháp chẳng diệt”,
người ấy tiếp nhận, khẳng định. Chúng ta nghe câu này,
nhất định sẽ nói: “Thưa Thích Ca Mâu Ni Phật! Con thấy đời người có sanh, lăo,
bệnh, tử, thấy hoa nở, hoa tàn, lẽ nào chẳng có sanh diệt?” Chúng ta không hiểu! Thật vậy! Thật sự chẳng có sanh diệt! Đối với kiến thức thông thường này, muốn hơi hiểu rơ một chút,
hăy đọc bộ Hoàn Nguyên Quán,
trong ấy đă giảng rất rơ ràng, chúng ta chưa thể chứng thực, nhưng Bát Địa Bồ Tát đă thấy. Đọc kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta thấy Sơ Trụ Bồ Tát thuộc Viên Giáo phá vô minh, chứng Pháp Thân, Ngài đă thấy vô niệm, vô sanh, thoát ly mười pháp giới. Thưa quư vị, mười pháp giới có sanh, có diệt. Mười pháp giới do đâu mà
có? Do A Lại Da biến hiện. Những điều các
khoa học gia hiện thời nói rất giống với ba tế tướng của A
Lại Da. Các khoa học gia nói: Trong vũ trụ, chỉ có
ba thứ, trừ ba
thứ ấy ra,
thứ ǵ
cũng đều không có. Ba
thứ ấy là ǵ? Thứ nhất là năng lượng, thứ hai là vật chất, thứ ba là thông
tin. Đức Phật giảng ba tế tướng của A Lại Da,
thứ nhất là Nghiệp Tướng, [thứ hai là] Chuyển Tướng, [thứ ba là] Cảnh Giới Tướng. Nghiệp Tướng là
năng lượng, Chuyển Tướng là thông tin,
Cảnh Giới Tướng là vật chất. Chúng ta cũng chẳng thể không
bội phục các
nhà khoa học, họ cũng phát hiện, nhưng chẳng nói rơ
ràng như đức Phật. Đức Phật nói ba hiện tượng này do đâu mà có? Họ (các nhà
khoa học) không biết ba hiện tượng này lại biến hiện ra vũ trụ, biến hiện ra vạn vật, biến hiện ra con người chúng ta như thế
nào,
các khoa học gia chẳng nói được! Khoa học
cận
đại có thể phát
hiện
ba thứ này,
há
phải
dễ
dàng!
Sơ
Trụ
Bồ Tát buông
khởi tâm động niệm xuống, chẳng
khởi
tâm,
chẳng
động
niệm,
đương nhiên chẳng
có
phân biệt, chấp
trước.
Sau
khi
khởi
tâm động niệm mới có phân biệt, sau khi phân biệt mới có chấp trước. Những thứ này thảy đều buông xuống, sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chưa đến được Thường Tịch Quang, có thể nói là “chứng Thường Tịch Quang, nhưng chưa
khế
nhập”.
V́ sao?
C̣n tập khí vô
minh chưa đoạn. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ có tập khí vô minh dày hay mỏng khác nhau; [nếu]
toàn bộ tập khí đă đoạn hết, cơi
Thật Báo Trang Nghiêm cũng chẳng c̣n.
Họ đến nơi đâu? Tới cơi
Thường Tịch Quang. Trong Thường Tịch Quang, không có hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần cũng chẳng có,
đúng là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, quư vị không có cách nào
tưởng tượng, mà cũng chẳng diễn tả được. Nó thật sự tồn tại, vĩnh hằng tồn tại, chẳng sanh, chẳng diệt. Có khởi tác dụng hay không? Khởi tác dụng! Chúng sanh có
cảm, nó bèn
ứng; sự cảm ứng đạo giao này
cũng rất khó tưởng tượng. Thuở trẻ, chúng tôi học Phật pháp, thầy cũng chẳng giảng rơ ràng chuyện này, đối
với chuyện này, chúng tôi
luôn hoài nghi.
Nỗi hoài nghi ấy chẳng có
vấn đề, trong Phật pháp gọi [nỗi hoài
nghi ấy] là “nghi t́nh”, thường nghi, chưa thể đoạn. Huân tập kinh giáo Đại Thừa một thời gian dài, tôi
mới dần dần lănh ngộ. Sự lănh
ngộ ấy là ngộ, là giải ngộ, chưa phải chứng ngộ. Giải ngộ, chẳng hoài nghi nữa! Có
lư, đạo lư cũng đă hiểu. Có Lư đương nhiên có Sự, có
Sự đương nhiên có
Lư. Từ Sự mà hiểu rơ Lư,
từ Lư cũng liễu giải Sự. V́ sao chưa thể chứng đắc? Chưa buông khởi tâm động niệm xuống được! Phân biệt, chấp trước nhẹ hơn người b́nh thường, v́ sao người b́nh thường ngay cả giải ngộ cũng gặp khó khăn dường ấy? Do phân biệt, chấp trước quá nặng, điều này
chướng ngại ngộ môn của quư
vị, chưa thể chứng ngộ. Quư vị thấy giải ngộ c̣n
bị chướng ngại, huống hồ chứng ngộ!
Tu hành Phật pháp chẳng có
chi khác, buông xuống, triệt để buông xuống! Bố Đại ḥa thượng đă biểu thị pháp đến nơi đến chốn. [Ngài sống]
vào đời Tống, cùng một thời với Nhạc Phi, Bố Đại ḥa thượng là Di Lặc Bồ Tát, người Hoa gọi Ngài là
Hoan Hỷ Phật. Đây là
một nhân vật truyền kỳ, nhưng trong Cao Tăng Truyện có
truyện kư của Ngài. Trong truyện kư, chẳng ghi tên
họ của Ngài
v́ không ai biết, [Ngài là] người xứ nào
cũng không biết. Ngài
xuất hiện tại Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Nơi Ngài trụ là chùa
Tuyết Đậu, ngôi
chùa này hiện thời là đạo tràng
của Di Lặc Bồ Tát,
Ngài trụ tại nơi đó. Mập mạp, luôn tươi cười, hằng ngày ra ngoài hóa duyên, bất luận người ta cho thứ ǵ đều nhét
vào túi vải. Có
một lần, trên đường, gặp mấy người thưa hỏi lăo
nhân gia: “Phật pháp là
ǵ?” Ngài bỏ cái
túi vải xuống đất, buông
thơng hai tay, thể hiện tư thế như vậy, chẳng nói
một câu nào!
Người ta nh́n ra: “Đó là buông xuống, sau khi buông xuống sẽ làm như thế nào?”
Ngài khoác
túi vải lên lưng bỏ đi, chẳng đoái hoài đến ai.
Ngài đă thật sự trả lời, thật sự giảng rơ ràng.
Phật pháp là ǵ?
Buông xuống là Phật pháp.
Quư vị thấy: Trong giáo pháp Đại Thừa, buông chấp trước xuống bèn chứng A
La Hán, buông phân biệt xuống là Bồ Tát;
buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị bèn thành Phật. Từ đầu đến cuối đều dạy quư
vị buông xuống, buông xuống tới mức chẳng c̣n ǵ
hết. Ngay cả sự buông xuống ấy cũng buông luôn, quư vị sẽ thành Phật.
Sau khi thành Phật th́ sao?
Nâng lên!
Buông xuống được, sẽ nâng lên
được! Nâng
lên là ǵ
vậy? “Nâng lên”
là phổ độ chúng sanh.
Nói theo từ ngữ hiện thời, “độ” là giúp đỡ, giúp sức, góp
tay. Chúng sanh có
khổ nạn, quư vị giúp họ. Chúng sanh đang mê
hoặc, chưa giác ngộ, quư vị giúp họ giác ngộ. Dùng phương pháp ǵ? Giảng kinh, giáo học. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật dùng phương pháp này, chúng ta đều thấy “thân hành, ngôn giáo”: những ǵ
Ngài đă nói, Ngài
đều thật sự làm được. Thân hành, ngôn
giáo, giảng kinh,
thuyết pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời làm chuyện như vậy. Ba mươi tuổi khai ngộ, khai ngộ rồi bắt đầu dạy học, bảy mươi chín tuổi viên tịch, giảng kinh, dạy học suốt bốn mươi chín năm, những điều Ngài đă nói
Ngài đều làm được toàn bộ, chẳng có
điều nào
không làm! Ngài dạy chúng ta như dạy trẻ vỡ ḷng, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Ngài làm được, chẳng sát sanh, không trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói
thêu dệt, chẳng ác khẩu, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, thật sự làm được, làm thanh tịnh. Tam
Quy là
buông xuống “mê, tà,
nhiễm”, nương theo “giác, chánh, tịnh”, đó là Tam Quy, Ngài làm được. Ngũ Giới Ngài làm được. Kinh giáo dạy chúng ta buông chấp trước xuống, Ngài làm được. Buông phân biệt xuống, Ngài cũng làm được. Buông khởi tâm động niệm xuống, Ngài làm được. Sau đấy, bảo quư
vị: Chỉ cần quư
vị thật sự chịu buông xuống, trong tự tánh có
sẵn vô lượng trí huệ; vô lượng công đức và
vô lượng tướng hảo thảy đều trọn đủ trong tự tánh.
Trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Thế Tôn dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”,
thật đấy, chẳng giả đâu! Huệ Năng đại sư khai ngộ, nói: “Hà kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ tự tánh
vốn tự trọn đủ), có cùng
ư nghĩa như kinh Hoa
Nghiêm đă nói.
Khi quư
vị buông xuống, Tánh Đức trong tự tánh hiện tiền, bất luận quư vị học hay chẳng học, đúng là sáu
căn vừa tiếp xúc bèn
triệt để hiểu rơ, đó là
bản năng (năng lực sẵn có). Tổ tiên Trung Quốc đă hiểu [điều này], nhưng nói quá
đơn giản, cho nên người đời sau quá
nửa hiểu cong vẹo, hiểu sai lầm. Tổ tiên chỉ nói một câu: Bổn tánh vốn lành. Câu
đầu tiên
trong Tam Tự Kinh là:
“Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (Con người thoạt đầu tánh vốn lành). Chúng ta thấy những chữ này, ngay lập tức dựa trên
văn tự để suy đoán ư
nghĩa, ngỡ thiện là ǵ? Thiện là
thiện trong thiện ác.
Chẳng phải vậy! Đó chẳng phải là thiện trong “thiện, ác”, chúng
ta đă hiểu lầm mất rồi! Làm thế nào để hiểu “thiện” [trong câu
nói đầu tiên
của Tam Tự Kinh] chẳng phải là
thiện trong thiện ác? Hăy
dùng đạo lư được giảng trong kinh Phật để đọc lời lẽ của tổ tiên.
Do vậy, ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) nói rất hay! “Người Trung Quốc
tâm lượng
rất lớn,
dung nạp văn hóa Ấn Độ, đó là dung nạp văn hóa ngoại
lai, Phật giáo Ấn Độ đă làm phong phú văn hóa bản địa của Trung Quốc”. Chúng ta nói “thiện” ở đây chẳng phải là thiện trong “thiện, ác”, điều
này đă làm
phong phú văn hóa bản địa của Trung Hoa. “Thiện” ở đây là tự tánh,
chẳng phải là thiện trong thiện ác;
có thiện và
ác sẽ chưa phải là thiện, v́ sao?
Có phân biệt, chấp trước. Thiện ở đây là ǵ? Là tự tánh như trong kinh Phật đă nói,
pháp môn Bất Nhị mới gọi là
“thiện”. Nhị là
bất thiện; thiện ác là nhị pháp, đối lập, chẳng thiện. Thiện thật sự chẳng có đối lập. Nhà Phật nói Tánh, Tướng, Lư,
Sự, nhân, quả là một, không hai,
lúc đó mới là thiện, ư nghĩa này cũng rất sâu,
Đại Thừa Phật pháp mới viên dung. Có phải là ư nghĩa này hay chăng? Đúng vậy, v́ tự tánh viên dung hết thảy các pháp,
tuyệt đối chẳng hiểu sai ư
nghĩa.
Tổ tiên
Trung Quốc chẳng đơn giản, quư vị thấy điều thứ nhất trong Ngũ Luân là
“phụ tử hữu thân”,
“thân” (親) là thân ái. Hiếu được biểu hiện như thế nào?
Là thân ái.
Cha con thân
ái là hiếu. Chữ Hiếu thuộc loại Hội Ư, quư vị hăy nh́n vào sự sáng tạo văn tự; v́ thế, văn tự Trung Quốc chẳng thể sửa. Hễ sửa, ư nghĩa chẳng c̣n nữa! Quư vị thấy phù hiệu này sẽ nghĩ đến ư nghĩa. Quư vị thấy chữ Hiếu (孝),
phía trên là
Lăo (老), phía dưới là Tử (子). Hai chữ này hợp lại, quư vị thấy được ư nghĩa sau đây: Một đời trước và đời hiện tại có cùng một Thể, đó là Hiếu, là ư nghĩa gốc của Hiếu. Trên một đời, c̣n có
một một đời nữa, đời tiếp theo c̣n có đời tiếp theo nữa. Quá
khứ không có
khởi nguồn, vị lai không
kết thúc, là nhất thể. Ư nghĩa này trong [văn tự] ngoại quốc không có.
Trong văn tự ngoại quốc càng chẳng có cách nào nh́n ra [ư nghĩa này]; văn tự Trung Quốc khéo quá, hay quá, tận thiện, tận mỹ. Quư vị nh́n vào văn tự Trung Quốc, nếu chẳng nhận biết [ư nghĩa được bao hàm
trong từng chữ], tức là chưa biết đọc; nhưng nếu có thể nh́n ra
ư nghĩa của nó,
[sẽ thấy] đấy là
phù hiệu trí huệ.
Chúng ta thấy Bát
Địa Bồ Tát “ly nhất thiết tâm ư thức
phân biệt” (ĺa
hết thảy tâm ư thức phân biệt). Bát Địa Bồ Tát đă sớm chẳng c̣n tâm ư thức, v́ sao?
Trong Viên Giáo, Sơ Trụ Bồ Tát đă thoát
ly mười pháp giới, sanh về cơi Thật Báo, đă chuyển thức thành trí, lẽ nào c̣n có tâm ư thức phân biệt? Câu này nên
hiểu ra sao? Câu
này nói về tập khí vô minh từ vô
thỉ, tập khí này hết sức mỏng nhẹ, hữu t́nh chúng sanh trong mười pháp giới, kể cả Phật, Bồ Tát,
Thanh Văn, Duyên Giác trong mười pháp giới hoàn toàn chẳng biết [tập khí này
hiện hữu], huống hồ phàm phu chúng ta!
Chúng ta tưởng các Ngài đă hoàn toàn đoạn hết, [nào ngờ họ] chẳng thấy tập khí. Tập khí rất mỏng, chính các
Ngài có biết hay không? Chính các Ngài
chẳng biết, người có địa vị cao hơn các Ngài sẽ biết, người có
địa vị thấp hơn các Ngài
không biết. Cũng có nghĩa là
Thất Địa không biết [cảnh giới của] Bát Địa, nhưng Bát Địa biết Thất Địa; Bát Địa không biết Cửu Địa, nhưng Cửu Địa hiểu Bát
Địa. Ở đây nói:
“Ĺa hết thảy
tâm ư thức phân biệt” là
nói đến tập khí. Tập khí này hầu như đă đoạn được. Đạt tới Bát Địa th́ trên
vị
Bồ Tát ấy có
Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác,
cho đến Diệu Giác sẽ hoàn toàn đoạn dứt, tập khí hoàn toàn chẳng c̣n. Bốn mươi mốt phẩm tập khí gần như Ngài đă
đoạn hết, lúc ấy mới thật sự là Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Hiểu theo nghĩa rộng, địa vị nào
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Sơ Trụ Bồ Tát đă đắc. V́ sao?
Ngài buông khởi tâm động niệm xuống, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm là đoạn vô minh.
Đoạn hết vô minh bèn
chứng Pháp Thân,
thoát ly mười pháp giới. V́ vậy, chúng ta phải hiểu chỗ này! Nếu quư
vị chẳng hiểu, sẽ hoài nghi:
Sơ Trụ Bồ Tát chẳng c̣n khởi tâm động niệm, cớ sao vẫn chưa thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Nói theo phía chúng ta, Sơ Trụ Bồ Tát thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn; nhưng đối với những địa vị cao hơn Ngài,
Ngài vẫn chưa chứng, phải đến lúc
Ngài đắc Bát Địa Bồ Tát, người ta mới thừa nhận Ngài đă thật sự đắc Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Cửu Địa, Thập Địa, Thập Nhất Địa, Diệu Giác.
Thập Nhất Địa là Đẳng Giác.
Bốn địa vị trên Bát
Địa chắc chắn đă đắc [Vô Sanh Pháp Nhẫn] v́
đă đoạn trừ tập khí.
“Khả kiến thử năi thánh giả chi sở nan, an năng kỳ chi ư cụ phược phàm phu” (có thể thấy bậc thánh c̣n gặp khó khăn, làm sao phàm phu đầy dẫy triền phược mà ḥng làm được). Làm sao chúng
ta
có
thể
thực
hiện
được?
Đây
là
nói
vô niệm vô sanh
[phàm
phu
chúng
ta]
chẳng
làm
được! Sơ
Trụ
mới
chứng
đắc
vô niệm vô sanh,
đến địa vị Bát Địa
mới coi như viên
măn,
tập khí chẳng
c̣n
nữa. “Thị dĩ Thiện Đạo đại sư Tứ Thiếp Sớ viết” (do vậy, trong Tứ Thiếp Sớ của Thiện
Đạo
đại
sư
có nói).
Tứ Thiếp Sớ là bản
chú giải kinh
Quán
Vô
Lượng
Thọ
Phật
của Thiện
Đạo
đại
sư, bản chú
giải có
tên là Tứ Thiếp Sớ, c̣n
gọi là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, đấy là [trước tác] của Thiện Đạo đại sư . Trong ấy, có một đoạn như thế này: “Kim thử
Quán
môn đẳng” (nay các phép
Quán). Do
kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật giảng tất cả mười sáu phép Quán, cho nên “Quán môn đẳng” là mười sáu phép Quán,
đều là “chỉ phương lập
tướng”, [tức là]
chỉ rơ Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ ra phương vị, lại c̣n dạy quư
vị cách quán như thế nào. Phép Quán
thứ nhất dạy quư
vị quán
h́nh dáng
mặt trời lặn ở phương Tây, “mặt trời
lặn giống
như cái trống treo”. Khi mặt trời sắp lặn, đỏ rực như cái
trống, bảo quư
vị nh́n điều ấy. Phải như thế nào
mới là quán
thành tựu? Mở banh con mắt bèn thấy, mà nhắm mắt, nó
vẫn ở tại đó, vẫn trông thấy, th́ phép
Quán này mới được gọi là
“quán thành”.
Mười sáu phép Quán này,
bất luận quư vị quán
thành một phép Quán
nào, cầu sanh Tây Phương sẽ có phần; chẳng phải là cả mười sáu phép Quán đều phải quán thành
tựu. Bất luận một phép
Quán nào, sau khi
quán thành đều có thể văng sanh thế giới Cực Lạc. Khó hơn niệm Phật! Chúng ta thấy ấn tượng về mặt trời đỏ rất sâu, ở trong căn pḥng này, chúng ta có thấy mặt trời đỏ hiện hữu hay chăng? Hiện hữu! Nếu vậy, đó là [quán
cảnh thành tựu] thật sự. Nếu không, phép
Quán này chưa thành. Do
vậy, quán tưởng cũng chẳng dễ dàng, tinh thần quư vị chưa thể chuyên chú, cảnh giới ấy sẽ chẳng hiện tiền. V́ sao có
thể hiện tiền? Theo Lư, kinh Đại Thừa dạy: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”,
trong tâm quư vị thật sự có, nó sẽ thật sự hiện tướng.
Trong Thập Lục Quán Kinh có cách quán tượng Phật, [tức là] Quán Tượng Niệm Phật; Quán Tưởng Niệm Phật, “tưởng” là trong tâm
nghĩ tưởng y báo
và chánh báo
trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Chỉ cần quư vị vừa tưởng, cảnh giới bèn hiện tiền; khi quư vị chẳng tưởng, cảnh giới không c̣n
nữa! Lúc nào tưởng, lúc
ấy cảnh giới hiện tiền, văng sanh c̣n
có vấn đề ǵ hay chăng? Khi lâm chung,
tâm tưởng thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc bèn hiện tiền, Tây Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn quư vị, công phu này phải luyện thành trong lúc thường nhật. Quán Tượng Niệm Phật là tạo một bức tượng A Di Đà Phật, mỗi ngày chiêm ngưỡng, cũng giống như [quán]
mặt trời lặn giống như cái
trống treo, thấy như thế nào?
Mở banh con mắt, tượng Phật ở trước mặt; nhắm tịt mắt lại, tượng Phật vẫn hiện tiền, bất luận ở nơi đâu, quư vị vừa nghĩ, tượng Phật liền ở trước mặt, đó là Quán
Tượng Niệm Phật. Phép Quán
cuối cùng, tức phép Quán
thứ mười sáu,
là tŕ danh. Do vậy, Tŕ Danh Niệm Phật cũng có trong mười sáu phép Quán, là
phép Quán cuối cùng trong mười sáu phép Quán.
Phép cuối cùng là
quan trọng nhất. Ấn Độ và Trung Quốc có rất nhiều tập tục tương đồng, thứ tốt nhất đặt ở cuối cùng, “áp trục” (màn
chót trong các
cuộc biểu diễn nghệ thuật). Cũng có nghĩa là: Nếu dùng những phép
Quán ấy mà quán
chẳng thành
th́ sao? Quán chẳng thành bèn
niệm Phật. Niệm Phật có
thể văng sanh, dễ hơn bất cứ cách
nào. V́ vậy, Tŕ Danh Niệm Phật là phép Quán
thứ mười sáu;
pháp môn này độ trọn hết thảy chúng sanh hữu duyên.
Phải có duyên! “Hữu duyên” là quư vị tin tưởng, có tín, có nguyện, thật sự niệm Phật, đó gọi là “hữu duyên chúng sanh”. Thiện Đạo đại sư nói: “Vạn tu, vạn nhân khứ” (vạn người tu, vạn người về). Do vậy, [cách tu này] là “chỉ phương
lập tướng”. “Trụ tâm thủ cảnh” (lắng tâm giữ lấy cảnh), chẳng phải là vô niệm, vô sanh; “trụ tâm” là
bảo quư vị hăy chú tâm nơi cảnh giới, giữ lấy cảnh giới. “Tổng bất năng vô tướng ly niệm
dă” (nói
chung là chưa thể vô
tướng ĺa
niệm). Thập Lục Quán Kinh chẳng bảo quư vị ĺa tướng, mà cũng chẳng buộc quư
vị ly niệm. Phương pháp Tŕ
Danh này là phép Quán thứ mười sáu,
đương nhiên cũng là hữu niệm, cũng là hữu sanh, chẳng phải là vô tướng ly niệm.
“Như Lai huyền
tri
mạt đại
tội trược phàm phu, lập
tướng trụ tâm thượng bất năng
đắc, hà huống ly tướng nhi cầu sự giả” (Như Lai sớm biết phàm
phu tội chướng nhơ bẩn trong đời Mạt Pháp, lập tướng để trụ tâm c̣n
chưa thể làm được, huống hồ tu tập theo lối ĺa
tướng): Như Lai ở đây là
A Di Đà Phật và
Thích Ca Mâu Ni Phật, mở rộng ra là
hết thảy chư Phật Như Lai.
Chư Phật Như Lai thị hiện làm
Phật trong các thế giới khác nhau, giáo hóa chúng sanh, dùng pháp môn ǵ? Đều dùng pháp môn này. V́ sao?
Pháp môn này thích hợp khắp ba căn, thâu
trọn phàm lẫn thánh. Trừ pháp môn này ra,
người thượng thượng căn có
phần, chứ kẻ trung hạ căn chẳng có
phần. Chúng sanh càng
khổ nạn, mê hoặc, tội chướng, tập khí nặng nề, Như Lai
càng đặc biệt thương xót bọn họ. Để độ bọn họ, chỉ có pháp môn này.
Pháp môn này của kinh
Vô Lượng Thọ hết sức thuận tiện, chuyên giảng “tŕ danh niệm Phật, tín nguyện tŕ danh” là được rồi, có
thể đắc độ; nhưng pháp môn này đúng là pháp khó
tin! Chỉ cần quư vị kiên định ḷng tin, quyết định chẳng hoài nghi, sẽ đắc độ trong một đời này. Nếu hoài nghi th́
sao? Hễ hoài nghi,
phải nghiên cứu kinh giáo. Đức Thế Tôn giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm nhắm vào
đối tượng nào? Nhắm vào đối tượng là kẻ có nghi vấn, đặc biệt là những kẻ nghi hoặc pháp môn Niệm Phật. Tín tâm của quư vị chẳng kiên định, nguyện tâm chẳng khẩn thiết, làm thế nào đây? Nghe kinh, đức Phật đă giảng cẩn thận, quư vị nghe rơ ràng, nghe rồi hiểu rơ,
tin tưởng. Do vậy, giảng kinh với dụng ư giúp đỡ chúng sanh đoạn nghi sanh tín. Nếu đă thật sự tin tưởng, chẳng hoài nghi tí
nào, có cần phải nghe kinh hay chăng? Chẳng cần thiết! Quư
vị giữ lấy Tịnh Độ, nhất định thành tựu, không c̣n
phải mất công
nghe kinh,
niệm một câu Phật hiệu đến cùng. Như vậy th́
trong Niệm Phật Đường có thể chẳng cần nghe kinh ư? Có
thể; nhưng v́
sao nay trong Niệm Phật Đường, chúng ta yêu
cầu họ phải nghe kinh? Họ chưa đủ tín nguyện, chẳng nghe kinh sẽ không xong! Quư vị đọc Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, thời đại của tổ Ấn Quang cách thời đại chúng ta không xa, đại khái là bảy mươi, tám mươi năm trước đây, vào thuở Ấn Quang đại sư tại thế, Niệm Phật Đường trong thuở ấy không cho phép
giảng kinh, chỉ giảng khai thị, chẳng giảng kinh!
V́ sao?
Ḷng người thuần hậu, mọi người vào Niệm Phật Đường đều có
tín tâm, chẳng hoài nghi, thật thà niệm Phật. Người niệm Phật hiện thời chẳng thật thà, có nghi hoặc; chẳng đoạn nghi sẽ không
được. Chẳng đoạn nghi th́
nó sẽ chướng ngại quư vị. Quư vị thấy trong giáo
pháp Đại Thừa, đức Phật đă dạy rất hay: “Nghi là chướng ngại
lớn
nhất của
Bồ
Tát”,
chướng ngại ǵ? Chướng ngại tinh tấn. Nghi c̣n
có thể chướng ngại các Bồ Tát tinh tấn th́ đối với lũ phàm phu chúng ta, nó
gây chướng ngại càng to hơn, chướng ngại ǵ vậy? Chướng ngại quư vị giác ngộ. Quư vị có nghi, nghe kinh không hiểu, đọc kinh chẳng liễu giải ư nghĩa, điều ǵ
chướng ngại vậy? Chướng ngại chính là ḷng
hoài nghi;
do quư vị hoài nghi, nên
chẳng cung kính kinh giáo, Phật có
muốn gia tŕ quư
vị cũng không
được! Ấn Quang đại sư nói rất hay: “Một phần
thành
kính đắc
một
phần lợi
ích, mười phần
thành kính đắc mười phần lợi
ích”.
Quư vị thiếu tâm
cung kính v́ quư
vị hoài nghi. Thiếu tâm cung kính, sẽ chẳng đạt được lợi ích, nghe cũng không hiểu, nghe vài chục năm vẫn không hiểu. Nghe không hiểu vẫn phải nghe, đức Phật vô
cùng từ bi, không ngại phiền phức, nghe mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, sẽ nghe hiểu, nghe hiểu rồi sẽ chẳng hoài nghi nữa. Khi quư
vị chẳng c̣n
hoài nghi,
tiến bộ cũng nhanh chóng, sẽ cảm thấy mỗi năm mỗi khác. Tới khi nào,
quư vị có thể cảm thấy mỗi tháng đều khác nhau,
cảnh giới chẳng giống nhau, chắc chắn quư vị được văng sanh. Mỗi năm khác nhau,
đó là cảnh giới tốt đẹp, nhưng văng sanh chưa nắm chắc. Mỗi tháng
đều khác nhau,
nắm chắc văng sanh! Câu
kế tiếp là
tỷ dụ, “tự vô thuật thông nhân, cư không an lập
xá dă” (cũng giống như kẻ chẳng có
thần thông hay pháp thuật xây nhà
trên không). Đây là phàm phu mong muốn vô niệm, vô sanh, khế nhập cảnh giới này, giống như kẻ chẳng có
thần thông lại toan xây nhà
trên hư không, có được hay chăng? Người có thần thông th́ được, kẻ không có thần thông chẳng làm được! Có
nghĩa là: Nếu phàm phu chúng ta muốn khế nhập vô niệm vô sanh, sẽ giống như kẻ chẳng có
thần thông toan cất nhà
trên hư không. Đây là một câu trong Tứ Thiếp Sớ.
Kế đó, cụ Hoàng Niệm Tổ nói: “Cái dĩ chúng sanh vọng tâm, niệm niệm
tương tục,
như cấp lưu thủy, tùng vị tạm tức” (ấy là v́
chúng sanh vọng tâm niệm niệm tiếp nối như ḍng nước chảy xiết, chưa hề tạm ngừng). Tỷ dụ này
hay lắm, đúng như vậy, chúng ta vọng tâm, vọng tâm là ǵ? Là khởi tâm động niệm! Khởi tâm động niệm vô cùng vi tế; tâm vừa động, vọng tâm bèn
xuất hiện. Vọng tâm là
A Lại Da, A Lại Da cũng chẳng ĺa tự tánh,
từ chân khởi vọng. Nói thật ra, chân và vọng chẳng hai.
Do chân và vọng chẳng hai,
nên chư Phật Như Lai thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, hết thảy chúng sanh vốn là Phật, v́ sao?
Chân và vọng chẳng hai.
A Lại Da chẳng rời khỏi tự tánh, chỉ là lệch khỏi Tánh Đức, trái nghịch, xa rời Tánh Đức, nên
sanh ra những huyễn tướng ấy. Không như tứ thánh pháp giới, tứ thánh pháp giới cũng dùng A Lại Da, nhưng các Ngài
thật thà,
nghe lời, vâng
lời dạy của chư Phật Như Lai,
y giáo phụng hành; do đó, các Ngài học rất tốt đẹp, học rất giống Phật. Chưa phải là
Phật thật sự, nên
gọi là Tương Tự Tức Phật. Thiên Thai đại sư nói các
vị trong tứ thánh pháp giới rất giống Phật. V́ sao chưa phải là chân Phật? Họ dùng A
Lại Da,
vẫn dùng vọng tâm;
tuy dùng vọng tâm nhưng học rất giống. Khi nào
buông vọng tâm xuống, chân
tâm sẽ hiện tiền. Vị ấy là chân Phật, đó gọi là
“chuyển thức thành trí”,
đó là chân Phật, chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí. Đại Viên Kính Trí là
ǵ? Đại Viên Kính Trí là
Thường Tịch Quang. Do mê, Thường Tịch Quang bèn biến thành A Lại Da, hễ giác th́ là Thường Tịch Quang. Trí huệ trong Thường Tịch Quang là Chuyển Tướng của A Lại Da, tức là
Kiến Phần của A
Lại Da.
Đức tướng của Thường Tịch Quang là Cảnh Giới Tướng của A
Lại Da,
tức là Tướng Phần. Nó bị biến chất, tuy không có h́nh tướng, mà
có thể biến ra h́nh
tướng. Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết) trong tự tánh
chẳng sanh, chẳng diệt. Trong A Lại Da Thức, kiến văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. V́ vậy, Thọ, Tưởng, Hành, Thức từ kiến văn giác tri biến ra. Thọ, Tưởng, Hành, Thức có sanh diệt, kiến văn giác tri chẳng sanh diệt.
Thế giới này dường như tồn tại là do nguyên nhân nào? Niệm niệm nối tiếp, vọng tâm là khởi tâm động niệm. Trong lục đạo, chúng ta không chỉ khởi tâm động niệm, mà c̣n
phân biệt, chấp trước. Nếu quư
vị chẳng chấp trước, lục đạo sẽ chẳng có. Có khởi tâm động niệm, có phân biệt, bèn có tứ thánh pháp giới, trong Tịnh Độ gọi [tứ thánh
pháp giới] là cơi Phương Tiện Hữu Dư. Có
chấp trước, bèn là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, lục đạo luân hồi. V́ vậy, quư vị nói xem: Có phải là chấp trước tổn hại chúng ta nhiều lắm, mang lại cho chúng
ta lắm nỗi thống khổ? Lục đạo quá khổ sở! Đức Phật đă nói rơ ràng như thế, nay chúng ta cũng biết, có thể buông
chấp trước xuống hay chăng? Vẫn chưa thể, vẫn cứ chấp trước. Do nguyên nhân ǵ?
Tập nhiễm quá nặng, thời gian đă quá lâu,
dưỡng thành thói quen, hữu ư
hay vô ư khởi hiện hành. Tu hành là
tu theo cách
nào? Thời thời khắc khắc hăy cảnh giác; các
vị đại đức trong Tông Môn đă nói
rất hay: “Chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm”. V́
sao chẳng sợ niệm khởi? Niệm niệm tiếp nối, lẽ nào nó chẳng khởi lên cho được? Đă trở thành thói quen, nó
sẽ khởi lên.
Khởi lên
chẳng sợ, vấn đề là quư vị phải giác ngộ, phải hiểu rơ,
đừng bị nó mê
hoặc. Giác là như thế nào? Giác có hiện tượng là chẳng chấp trước, hễ giác ngộ th́ địa vị A
La Hán bèn chẳng phân biệt, địa vị Bồ Tát bèn chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, từ Sơ Trụ trở lên
thuộc vào địa vị Phật; đó là
Giác. Nay chúng ta chẳng giác, ngay cả tầng cấp A
La Hán vẫn chưa đạt được. Chúng ta học tập, vẫn phải biện luận, vẫn phải suy xét, đó là
ǵ? Đó là đang chấp trước. Chẳng chấp trước th́ có biện luận hay chăng? Chẳng chấp trước sẽ chẳng có biện luận. Khi quư
vị thấy người khác biện luận sẽ cười kh́,
cười kh́
là ǵ? Cười kh́ tức là dấy lên phân biệt, tuy chẳng chấp trước, cao hơn kẻ ấy (kẻ chấp trước) một chút,
nhưng vẫn chưa được! Đến tầng bậc cao là như như bất động, chẳng thể hiện t́nh
cảm ǵ, cảnh giới càng cao; cười kh́ là c̣n
khá lắm, so ra c̣n
cao hơn kẻ chấp trước một tầng. “Chưa từng ngưng dứt”, câu
này là lời răn nhắc rất quan trọng đối với chúng ta.
“Kim nhược
miễn cưỡng
án
nại, thô niệm
tuy đắc
sảo
tức, tế niệm
tùng
vị tạm chỉ” (nay nếu miễn cưỡng đè nén,
tuy thô niệm hơi ngưng nghỉ, tế niệm chưa hề tạm dứt). Nay các đồng học chúng ta đọc câu văn này
đều có thể lư giải, khẳng định: Chuyện này
chẳng thể miễn cưỡng, càng miễn cưỡng càng phiền phức. V́
vậy, đức Phật rất kiên nhẫn, chẳng nóng
ruột tí nào,
cứ thong thả giáo hóa.
Chúng sanh ô nhiễm bao kiếp dài lâu,
dưỡng thành tập khí phiền năo này, Bồ Tát cũng có thể hóa giải [tập khí ấy] trong bao nhiêu
kiếp. Nếu đời này,
chúng ta nắm được cơ hội, thứ ǵ
cũng đều buông xuống, nhất tâm niệm Phật, thật sự văng sanh Tịnh Độ, có phải là đời này mới bắt đầu [tu tập] hay không? Chẳng
phải,
văng
sanh thế
giới
Cực Lạc, quư vị sẽ
thấy
đời đời kiếp kiếp trong
quá
khứ
đều
học
Phật, học bao nhiêu đời,
nhưng đời
này thành công, thoát ly lục
đạo
luân
hồi.
Quư vị cảm
thấy
vô
cùng
may
mắn,
rất
cảm ơn
A Di Đà Phật,
v́ sao? Nếu
chẳng do pháp
môn
này,
quư vị tu bất
luận một pháp môn nào trong tám vạn
bốn ngàn pháp môn, chắc chắn chẳng thể thành tựu trong
một đời này. V́ sao?
Bất cứ một pháp môn nào cũng đều phải buông phiền năo xuống, quư
vị mới có thể vượt lên, nhưng pháp môn này không cần, không cần buông phiền năo tập khí xuống, cách này dễ dàng. Khăng khăng một mực theo chắc A
Di Đà Phật, một bước cũng chẳng chịu buông, sẽ đến thế giới Cực Lạc. Quư vị thấy [sự khăng khăng bám
chắc nơi A Di Đà Phật] là chấp trước; nhưng Tịnh Tông chẳng sợ chấp trước! Chấp tŕ danh hiệu là chấp trước, “tŕ” là
bảo tŕ (giữ ǵn), chớ nên đánh mất, chấp trước kiên
cố, chấp trước A Di Đà Phật, chẳng cần đến những thứ khác. Người ấy văng sanh Cực Lạc thế giới trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tốt lắm! Trong thế giới Cực Lạc, cơi Phàm Thánh Đồng Cư và cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng sai khác, chúng
ở cùng một chỗ, chẳng bị chướng ngại bởi các chiều không gian; nhưng trong thế giới của chúng
ta th́ có, thế giới bên kia chẳng có, v́ sao chẳng có? Chướng ngại về chiều không gian là
do chấp trước, phân
biệt; quư vị chẳng c̣n phân biệt, chấp trước, chướng ngại này sẽ không c̣n
nữa!
Phân biệt, chấp trước chưa đoạn, chẳng phải là sẽ mang tập khí này sang thế giới Cực Lạc ư? Chẳng sao cả! Người trong thế giới Cực Lạc thảy đều chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, quư vị đến nơi ấy, sẽ rất nhanh chóng, trong ṿng
vài ngày sẽ quen nếp, cũng sẽ buông
tập khí phân biệt, chấp trước ấy xuống. V́ sao?
Phân biệt, chấp trước là do quư vị mong đạt được thứ ǵ đó, dục vọng chẳng thỏa, nên
mới chấp trước. Nếu hết thảy những ǵ
quư vị cần, vừa nghĩ đến bèn có,
chẳng cần nữa sẽ biến mất, quư
vị thấy tự tại lắm! Do
bốn mươi tám nguyện của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật gia tŕ, quư
vị đến thế giới Cực Lạc, nghĩ ǵ đều có, thảy đều có thể đạt được. Cổ đức thường nói: “Tư y đắc
y, tư thực đắc
thực” (nghĩ đến y phục bèn
có y phục, nghĩ tới ăn bèn
có ăn), không cần sức người làm lụng. Đối với y phục, chẳng cần mua vải vóc, chẳng phải cắt may, vừa nghĩ tới, y phục bèn
khoác trên thân. Khi nghĩ đến th́
thức ăn trăm vị, kinh thường chép: “Bách vị ẩm thực”, chuyện này
có điển cố. Khi ăn là
một trăm món;
xưa kia, mỗi bữa ăn của hoàng
đế gồm một trăm món ăn. Bất luận nhà
vua ăn hay không, mỗi bữa ăn là một trăm món, bách vị ẩm thực mà!
Cuộc sống vật chất của quư
vị [trong thế giới Cực Lạc] giống như đế vương, cũng chẳng cần đến sức người làm lụng, quư
vị vừa nghĩ thứ ǵ,
thứ ấy ở ngay trước mặt, ăn xong, không
cần nữa th́ sẽ chẳng thấy nữa. Sạch sẽ, chẳng nhiễm mảy trần. Thật ư? Thật đấy! V́ sao là thật ? Các khoa học gia nói năng lượng có thể biến thành vật chất, vật chất có thể biến thành năng lượng. Trong thế giới hiện tại, có thể biến vật chất thành năng lượng, bom
hạch nhân (bom nguyên tử) được phát minh do điều này,
nhưng hiện thời [khoa học] chưa thể biến năng lượng thành
vật chất, tuy biết là chuyện có thể, nhưng chưa làm được! Trong thế giới Cực Lạc làm được, mỗi cá nhân đều có năng lực này. Họ chẳng cần dùng khí
cụ nào, mà
dùng ư niệm. Trong tâm họ muốn thứ ǵ,
năng lượng tự nhiên biến thành vật chất cho họ thụ dụng. Không cần thụ dụng th́ vật chất hóa thành năng lượng, chẳng c̣n nữa, chẳng cần đến kho chứa. Cung điện nơi họ ở trống trơn, chẳng có ǵ
cả, cần ǵ có nấy, nên chẳng có kho chứa, quư vị nói có phải tự tại lắm hay không? Trong hoàn cảnh ấy, khi sống trong ấy, dần dần quư vị sẽ chẳng c̣n
vọng tưởng nữa. Quư vị c̣n muốn có tiền ư? Tiền muốn bao
nhiêu sẽ có
bấy nhiêu. Quư vị muốn hoàng kim, người ta dùng
hoàng kim phủ đất, trải đường, quư vị có đem nhựa đường chất đống trong nhà
hay chăng? Tôi
tin quư vị sẽ không làm
như vậy. V́ sao?
Ở đây, hoàng
kim quá ít, nó là
kim loại hiếm có, c̣n bên
kia quá nhiều. Quư vị cần thất bảo, một viên kim
cương bé
tí đem cắt thành
nhẫn đeo tay rất đẹp, người ta làm
như thế nào?
Người ta đem cả khối kim cương lớn cắt thành vật liệu xây
cất, dùng làm vật liệu xây nhà.
Do vậy, tới thế giới ấy, tâm
tham lam hưởng thụ vật chất ngay lập tức sẽ chẳng c̣n nữa!
Do vậy biết rằng: Thế giới Cực Lạc tài nguyên phong phú ngần ấy, quá phong phú. Tài
nguyên ấy do đâu mà
có? Trong tự tánh.
Thế giới này cũng có, cũng phong phú giống hệt như vậy, nhưng trong thế giới này, thất bảo biến thành thứ ǵ? Biến thành cát,
thành bùn đất. Ai học khoa học cũng biết chúng biến thành những thứ ấy. V́ sao biến thành những thứ ấy? Ư niệm chẳng thiện, dấy lên tham,
sân, si; do vậy, trân bảo trong tự tánh đều biến thành ô
nhiễm. Trong giáo pháp Đại Thừa, có một câu nói diễn tả đại đạo lư: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”;
bên thế giới Cực Lạc “giai thị chư thượng
thiện
nhân câu hội nhất
xứ” (đều là các
vị thượng thiện nhân nhóm
họp cùng một chỗ), người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là thượng thiện. Chúng ta niệm Phật phải tu thiện; chẳng tu thiện, c̣n có tham,
sân, si, mạn, dẫu niệm Phật vẫn chưa thể văng sanh. Kinh đă giảng rất rơ ràng:
Phát Bồ Đề tâm, c̣n
phải tu Bồ Tát Lục Ba La Mật, đem công đức ấy hồi hướng Tịnh Độ mới được văng sanh. Chúng ta thấy có rất nhiều kẻ bần cùng, chẳng tu
Lục Ba La Mật, v́ sao cũng văng sanh? Quư vị quan sát tỉ mỉ, [sẽ thấy] tuy họ không tu, nhưng Lục Ba La Mật đă viên măn. Bố thí nhằm mục đích đoạn tâm tham, tuy họ bần cùng, trước nay chưa hề bố thí, nhưng chẳng tham luyến thế gian
này, nên Bố Thí Ba La Mật viên măn. Tŕ
giới là phá ác nghiệp, họ niệm câu Phật hiệu này,
chẳng làm ác nữa, nên
Tŕ Giới Ba La Mật viên măn.
Nhẫn nhục nhằm đối trị sân khuể, trong tâm họ, đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự chẳng có
tâm sân khuể, cũng chẳng oán
hờn người khác. Tinh
tấn là
niệm Phật chẳng giải đăi; Thiền Định là
nhất tâm nhất ư;
trí huệ là chọn lựa pháp môn này,
chẳng hoài nghi tí
nào. Quư vị hăy nghĩ xem: Bà
lăo một chữ không
biết, nhưng thảy đều trọn đủ, tương ứng với những ǵ kinh đă dạy. Quư
vị quan sát
cặn kẽ, [sẽ thấy] những điều kiện như kinh đă dạy, người ấy thảy đều trọn đủ.
“Hành nhân thảng nhược thác nhận, tiện vân tương ứng” (hành
nhân nếu ngộ nhận, liền cho là
đă tương ứng), đó là lầm to rồi. “Hành nhân” là
người niệm Phật, ở đây chỉ người niệm Phật tu Tịnh Độ. Thô niệm hơi ngưng dứt đôi chút,
nhưng tế niệm về căn bản là chưa đ́nh chỉ. Nếu tế niệm đă đoạn, tốt lắm, Thường Tịch Quang Tịnh Độ hiện tiền, bèn minh tâm kiến tánh. Tế niệm đoạn rồi, chính ḿnh có
biết hay không? Biết chứ, rơ
ràng, rành rẽ, thật sự buông xuống, triệt để buông xuống. Lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, không chỉ nhân gian,
thiên thượng, mà
cả y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới toàn bộ đều buông xuống, đó là tế niệm đă
đoạn rồi, chỉ cần kiến tánh, sẽ vĩnh viễn chẳng thoái
chuyển. Huệ Năng đại sư đă kiến tánh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă kiến tánh, thân
thể vẫn lưu trong thế gian,
kinh Phật gọi trường hợp này là
Hữu Dư Y Niết Bàn. Niết Bàn có
nghĩa là chính Ngài đă chứng đắc cảnh giới, kiến tánh. Kiến tánh là chứng Niết Bàn, nhập Đại Bát Niết Bàn,
kiến tánh là kiến đạo. Tuy
đă kiến đạo, nhưng thân
thể vẫn c̣n,
những tướng đă hiện đều tồn tại, đó là ǵ? Tập khí chưa đoạn. Tập khí chưa đoạn cũng không sao cả, v́ sao?
Ở trong cảnh giới ấy, Ngài chẳng c̣n khởi tâm động niệm, vĩnh viễn giữ được cảnh giới này, đó gọi là Bất Thoái. Ba
món Bất Thoái là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái. Sơ Trụ Bồ Tát chứng ba món Bất Thoái,
nhưng Ngài có tập khí.
V́ vậy, trong Tịnh Tông, trong bổn nguyện của A
Di Đà Phật có nguyện thứ mười chín, sanh về thế giới Cực Lạc, “giai tác A Duy Việt
Trí Bồ Tát” (đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát),
câu này tuyệt lắm! A Duy Việt Trí là
ǵ? A Duy Việt Trí là
viên chứng ba món Bất Thoái, chứng ba món Bất Thoái lại c̣n thêm
một chữ “Viên”.
Sơ Trụ Bồ Tát chứng ba món Bất Thoái,
nhưng chưa thể nói viên. Viên là
ǵ? Tập khí cũng đă đoạn. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật dạy chúng
ta: Từ Thất Địa trở lên,
Bát Địa chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, Thất Địa viên chứng ba món Bất Thoái, c̣n thua Bát Địa Bồ Tát một bậc. Tịnh Tông được gọi là “pháp khó tin”, “khó
tin” ở đây có
nghĩa là “ai
chịu tin tưởng”! Quư vị là phàm phu, niệm A Di Đà Phật sanh về thế giới Cực Lạc, là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư mà quả đức thù thắng ngần ấy, ai tin được? Nay chúng ta đă hiểu rơ ràng, chẳng phải là hễ văng sanh sẽ thật sự được nâng
cao tới phẩm vị này, chẳng phải vậy, người ấy vẫn là
phàm phu, chưa đoạn tập khí phiền năo,
chỉ là khuất phục phiền năo, nhưng ở bên
ấy chẳng có duyên [khiến cho phiền năo dấy động]. Tuy có chủng tử nhưng thiếu duyên, các
phiền năo chẳng thể khởi hiện hành. Hoàn cảnh [bên
Cực Lạc] đúng là
quá tốt đẹp, đạo lư ở chỗ này.
Tới thế giới Cực Lạc, trí
huệ và
đức năng bèn có năng lực cảm ứng đạo giao với chúng sanh trong mười pháp giới. Chúng sanh có cảm, họ bèn có ứng, có năng lực giống như Phật, Bồ Tát ứng hóa độ chúng sanh.
Năng lực do đâu mà
có? Do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, chẳng phải do chính họ. Họ phải thong thả tu đến địa vị Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, cho đến lúc ấy [năng lực hóa độ chúng sanh mới] là của chính ḿnh;
chưa đạt đến tŕnh độ ấy, sẽ do oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ; Phật lực chẳng thể nghĩ bàn!
Pháp môn này gọi là Nhị Lực Pháp
Môn. V́ vậy, [thần thông, trí
huệ, đạo lực] chẳng phải do tương ứng, mà do Phật gia tŕ, chúng ta phải hiểu rơ đạo lư này.
“Ư thị
đại
bi từ phụ” (do vậy, đấng cha lành đại bi),
đây là
nói về A Di Đà Phật. “Hưng vô duyên chi từ, thùy tư kỳ diệu
phương tiện
pháp môn, chỉ phương
lập tướng, nhiếp
tâm chuyên chú, tức
thử vọng
tâm, tŕ Phật danh hiệu,
niệm nhất
Phật
danh, hoán trừ bách thiên vạn ức vọng tưởng
tạp niệm,
niệm đắc
thuần thục,
năi vong năng sở, tâm vô sở trụ, Phật hiệu
phân minh, ám hợp đạo diệu , tiện khế
Kim
Cang Bát Nhă Kinh vô trụ
sanh
tâm chi diệu đế” (Khởi ḷng
Từ vô duyên,
ban pháp môn
phương tiện kỳ diệu này,
chỉ phương, lập tướng [để hành nhân]
nhiếp tâm, chuyên
chú, dùng chính
cái vọng tâm
này để tŕ
danh hiệu Phật. Niệm một danh hiệu Phật nhằm thay thế, trừ bỏ trăm ngàn vạn ức tạp niệm vọng tưởng. Niệm đến mức thuần thục sẽ quên
mất Năng lẫn Sở, tâm
chẳng trụ vào
đâu, Phật hiệu phân
minh, ngầm hợp đạo mầu, liền khế nhập chân lư
mầu nhiệm “vô
trụ sanh tâm”
trong kinh Kim Cang Bát
Nhă). Cụ Niệm Tổ viết đoạn này
rất hay, đây là A Di Đà Phật vô duyên đại từ, truyền cho chúng ta một pháp môn thuận tiện như vậy, thuận tiện hơn bất cứ pháp môn nào, chẳng t́m
được pháp nào
thuận tiện hơn bốn chữ “A
Di Đà Phật”. Trong tâm
quư vị thật sự có câu A Di Đà Phật này, niệm niệm chẳng quên,
hết thảy thời,
hết thảy chỗ
trong
tâm thật sự có [câu danh
hiệu
ấy],
quư vị sẽ
thành công. Niệm bao lâu mới
có thể văng sanh,
quả
báo
mới có thể hiện tiền? Chúng
ta
hăy
đọc Tịnh
Độ
Thánh
Hiền
Lục
và
Văng
Sanh
Truyện,
đại khái quá nửa
là
ba
năm.
Thuở
đầu, khi tôi giảng kinh, khi đó ước
chừng
tôi hơn bốn
mươi
tuổi, tôi ra giảng kinh lúc
ba mươi ba tuổi,
có pháp sư đến
hỏi
tôi,
ông ta hoài nghi, nói: “Có phải
là những người
được
kể
trong
Văng
Sanh
Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục từ khi họ bắt đầu niệm Phật tới lúc văng sanh, thọ mạng của họ chỉ c̣n vừa đúng ba năm, do thọ mạng đă hết, A
Di Đà Phật bèn đến tiếp dẫn họ ra đi?” Đem vấn đề này hỏi tôi. Tôi
nói: “Cách nghĩ của ông chẳng hợp lư
luận! Một, hai người hay
ba bốn người th́ có
thể, chứ đằng này
nhiều quá. Nhiều quá nên
[lập luận của ông] chẳng hợp lư. V́
sao ba năm họ ra đi? Chỉ cần họ đạt công phu thành phiến, tuy c̣n thọ mạng nhưng chẳng cần đến, ra đi sớm. Niệm đến mức công phu thành phiến bèn sanh tử tự tại”. Nói như thế mới thông suốt, viên măn.
Có người niệm tới tŕnh độ này, nhưng vẫn chưa đi, v́
lẽ ǵ? Người ấy có
duyên với chúng sanh trong thế gian này,
đă có duyên, phải mang thêm
mấy người cùng đi, mang càng nhiều càng hay nên
người ấy lưu lại. Người ấy sanh tử tự tại, muốn đi lúc nào
bèn đi lúc ấy, thật sự có năng lực này. Quư
vị hăy quan sát cẩn thận người như vậy, tuyệt đối chẳng tự tư tự lợi, chắc chắn chẳng có [ư
niệm tham đắm] tiếng tăm, lợi dưỡng, nhất định chẳng có tham,
sân, si, mạn, quư vị hăy quan sát cẩn thận. Nhưng khi hóa
độ, họ cũng biểu diễn, cũng nổi nóng, giống như hát tuồng; chẳng làm
như vậy sẽ không thể thực hiện [sự hóa
độ] được, nhưng trong tâm
quả thật chẳng có.
Trung Quốc có một câu ngạn ngữ để h́nh
dung hạng người này: “Đao tử khẩu, đậu
hủ tâm” (Miệng dao găm, ḷng
đậu phụ). Tâm địa rất dịu
dàng,
làm như thế đó
nhằm
thực
hiện
sự
hóa
độ, đó
là “thiện
xảo
phương
tiện”, chẳng phải là thật, quan sát cẩn thận quư vị sẽ có thể
thấy được. Chúng
ta thường gọi họ là
“bậc tái lai”, họ có thể đi, nhưng chậm lại mấy năm, ở lại thêm vài
năm nhằm giúp đỡ chúng sanh hữu duyên. Nếu không có duyên, họ bèn
ra đi. “Không có
duyên” chính là
người ấy dạy mà chẳng ai nghe, người ta không
tin tưởng, nên
người ấy ra đi. Ra đi cũng nhằm độ chúng sanh,
tướng lành
lúc người ấy mất khiến cho những kẻ b́nh phàm
trông thấy, sanh khởi ḷng tin, phát tâm học Phật. V́ vậy, người ấy ra đi cũng là độ chúng sanh,
mà ở lại thế gian cũng là độ chúng sanh.
Ở đây, chúng ta phải đặc biệt lưu ư, trong đây có một câu nói
phải khéo hiểu, “chỉ phương lập
tương, nhiếp
tâm chuyên chú, tức
thử vọng
tâm, tŕ Phật danh hiệu, niệm nhất
Phật
danh” (chỉ phương lập tướng, nhiếp tâm
chuyên chú, dùng
ngay cái vọng tâm này
để tŕ
danh hiệu Phật. Niệm một danh hiệu Phật), niệm A Di Đà Phật, “hoán trừ
bách
thiên vạn
ức vọng
tưởng tạp
niệm” (thay thế, trừ khử trăm ngàn
vạn ức vọng tưởng, tạp niệm), câu
này trọng yếu lắm! Niệm Phật có
công đức ǵ? Đấy là công đức, công đức chân thật. Khi quư
vị chẳng niệm Phật, có
vọng tưởng, có tạp niệm; một mực niệm một câu
Phật hiệu, quư vị sẽ chẳng có vọng tưởng; niệm Phật để trừ vọng tưởng, tạp niệm, đó là công đức chân thật. Tạp niệm, vọng tưởng là đang tạo nghiệp, rất nhiều người chẳng biết điều này. “Tôi chẳng làm
chuyện xấu”, dấy lên một ác niệm là đă tạo rồi! V́ vậy, tŕ danh niệm Phật nhằm trực tiếp khiến cho quư
vị chẳng khởi ác
niệm. Không chỉ là ác niệm chẳng thể khởi, mà
thiện niệm trong lục đạo cũng không khởi! Quư vị khởi thiện niệm sẽ cảm vời quả báo trong ba đường lành, ác
niệm cảm vời quả báo trong ba đường ác. Thiện niệm hay ác niệm đều chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong một câu
A Di Đà Phật này,
chẳng có lục đạo luân hồi; người ấy (người niệm Phật) chẳng ở trong lục đạo, A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị phải hiểu rơ đạo lư này. V́ sao niệm Phật? Niệm Phật chẳng tạo nghiệp, niệm niệm là A Di Đà Phật, đó gọi là “Tịnh nghiệp”, người ấy tương ứng với Tây Phương Tịnh Độ. V́ vậy, hễ niệm Phật hiệu bèn tương ứng với Phật. “Nhất niệm
tương ứng
nhất niệm
Phật,
niệm niệm
tương ứng
niệm niệm Phật”. Chúng ta nghĩ lại trong giáo
pháp Đại Thừa, đức Thế Tôn thường bảo: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Chúng ta vốn là Phật, hiện tại niệm niệm đều là Phật, lẽ nào
người ấy chẳng thành Phật? Quả vị cao nhất trong mười pháp giới là Phật Quả, c̣n phải vượt qua [quả vị ấy]! Do ở trong mười pháp giới, vẫn chưa thoát khỏi mười pháp giới; niệm A Di Đà Phật bèn vượt thoát
mười pháp giới. Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi
Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng vượt khỏi mười pháp giới, nhất định phải biết sự thật này, đường tắt mà! Ổn thỏa, xác
đáng! Do vậy, có thể tin, có thể nguyện, có thể hành, đó là trí huệ khôn
sánh. Nếu chẳng phải là
giác ngộ thật sự, trí huệ chân thật chân chánh, người ấy sẽ chẳng chọn lấy pháp môn này
trong một đời này!
Khi niệm đến thuần thục, sẽ nhập pháp môn Bất Nhị. “Năi
vong
năng
sở” (bèn
quên mất Năng và
Sở), Năng và
Sở tượng trưng cho tương đối, Năng và Sở chẳng hai.
“Tâm vô sở trụ”
(tâm chẳng trụ vào
đâu), chẳng trụ sở niệm (đức Phật được ta niệm), mà
cũng chẳng trụ năng niệm (cái tâm
niệm Phật), Năng lẫn Sở đều chẳng trụ, hiểu rơ
ràng, rành rẽ một câu
Phật hiệu này;
cảnh giới ấy gọi là
“ám hợp
đạo
diệu” (thầm hợp đạo mầu), “đạo diệu” là
như kinh Kim Cang đă dạy: “Vô trụ sanh tâm” . V́
sao gọi nó là đạo diệu? Huệ Năng đại sư khai ngộ do câu
này. Tục ngữ Trung Hoa thường nói “đắc đạo
trong một
câu”. Ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn giảng kinh Kim Cang cho
Lục Tổ nghe, đương nhiên là
giảng đại ư, v́ Lục Tổ không biết chữ, chắc chắn không đọc kinh
bổn; giảng đến câu “Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm” (đừng trụ vào đâu để sanh tâm), Lục Tổ bèn
hoát nhiên đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Khi đó, Lục Tổ hai mươi bốn tuổi, rất trẻ, Ngũ Tổ truyền y bát cho
Ngài. Nửa đêm, truyền y bát cho Ngài, bảo Ngài đi ngay lập tức, do nguyên nhân ǵ?
Tổ sư cũng là biểu diễn pháp
cho chúng ta thấy, nhằm dạy chúng ta học tập: Ganh ghét,
chướng ngại là chuyện chẳng thể tránh được. Thần Tú theo Ngũ Tổ đă bao nhiêu năm, là Thủ Tọa trong các
đồng học, là lớp trưởng, là trợ giáo
của Nhẫn ḥa thượng. Các đồng học cho rằng nếu Ngũ Tổ truyền pháp, trong ḷng mọi người đều đoan quyết Tổ sẽ truyền cho
Thần Tú, sao lại là
người khác? Nay
y bát truyền cho
một kẻ từ nơi khác
đến, hết thảy mọi người đều coi thường hắn. Trong tự viện, người đông dường ấy, tới cả ngàn người, trong ḷng những người đó có
phục hay chăng? V́ lẽ nào Ngũ Tổ lại truyền y bát cho
người khác? Đó là chuyện không thể chấp nhận được, nhất định phải đoạt trở về. Có
lẽ là lăo ḥa thượng tuổi đă cao, nhất thời hồ đồ, đem y bát truyền cho
kẻ chẳng liên
can! Do vậy, Ngũ Tổ nói: “Ngươi hăy
mau trốn đi”. Cuối cùng trốn trong phường thợ săn mười lăm năm, mười lăm năm khiến mọi người quên dần chuyện này,
Ngài mới xuất hiện. Chúng
ta phải ghi nhớ lời giáo huấn này. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ, đi các
nơi giảng kinh, nói
pháp, nhiều kẻ đố kỵ! Lục sư ngoại đạo đố kỵ, đó là đối với các tôn giáo khác, là
người ngoài. Trong nhà có
người đố kỵ chăng? Có chứ! Đề Bà Đạt Đa là
kẻ đố kỵ số một! Nhưng đức Phật có trí huệ chân thật, đức năng chân thật, có thể bao dung, tránh né ông
ta, đức Phật có năng lực ấy. Những chuyện này
đều nhằm thị hiện cho chúng ta thấy: Phật, Tổ thành tựu đều gian nan ngần ấy; chúng ta muốn b́nh an, thành tựu ổn thỏa, thích
đáng, đâu có
đại phước báo như vậy? Do vậy, hết thảy chướng ngại là chuyện không thể tránh được, phải dùng trí huệ và đức hạnh, dùng tâm
nhẫn nại để khắc phục. Đối với chúng ta mà nói,
hết thảy chướng ngại là khảo nghiệm,
cửa ải nào chúng
ta
cũng đều
vượt qua,
sẽ
đạt tiêu chuẩn, quư vị bèn
thành
tựu.
Có
cửa ải nào chẳng thể vượt qua, quư vị bèn đọa
lạc.
Hễ
đọa lạc, chẳng biết
phải tới
đời nảo đời
nao
mới có thể tiếp tục tu. Người thật
sự
tu hành, thật
sự
mong thành tựu trong một đời
này, chẳng thể không
biết [điều này].
“Vô trụ
sanh
tâm”,
vô trụ là thanh tịnh tịch diệt.
Thuật ngữ trong Phật môn [gọi vô trụ sanh tâm
là] Đại Bát Niết Bàn,
trong Tịnh Độ gọi là Thường Tịch Quang, tức Thường Tịch Quang Tịnh Độ trong bốn cơi. Trên
thực tế, nó
là tự tánh. Trở về tự tánh,
vọng tận, hoàn nguyên, hoàn nguyên sẽ chẳng trụ. Người ấy sanh tâm
là sanh cái tâm
ǵ? Chúng sanh có
cảm bèn có
ứng. Ngài th́ có ứng. Sự “ứng” ấy chính
là đại từ bi tâm, đại Bồ Đề tâm. V́ vậy, cảnh giới Niết Bàn chẳng phải là chết cứng, mà
là sống động, v́
trong cảnh giới ấy không có hiện tượng vật chất, mà cũng không có
hiện tượng tinh thần. Chuyện này
rất kỳ quái, không có hiện tượng tinh thần, mà
sống động hoạt bát, chẳng chết cứng! Do vậy, chúng sanh có
cảm th́ Ngài
bèn có ứng, dẫu là cảm cực kỳ vi tế vẫn luôn
có ứng, tuy yếu ớt, nhỏ nhoi đến nỗi khí
cụ khoa học của chúng
ta trong hiện tại chẳng thể ḍ xét
được, nhưng nó là
thật! Quư vị hăy nghĩ xem, một niệm này
chính là một phần của một ngàn hai trăm tám mươi triệu của một giây,
ư niệm vi tế như thế! Tâm
vô trụ là chân tâm, nó
có thể cảm ứng, cảm phản hồi thành ứng. Ứng là sanh tâm. Sanh tâm ǵ? Tuyệt đối chẳng phải là hữu ư. Ngài không có ư, cũng chẳng có niệm, v́ vậy gọi là Ứng. Chúng sanh có
cảm Ngài bèn
ứng. Ứng là tùy thuận cảm ở một nơi nào
đó, chính ḿnh tuyệt đối chẳng hề khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận ḷng chúng
sanh, ứng với khả năng nhận biết của họ), đây là
nguyên lư cảm ứng. Chúng sanh cầu Phật, Ngài bèn
hiện thân Phật; chúng
sanh cầu Bồ Tát,
Ngài bèn hiện thân Bồ Tát,
thân ǵ Ngài cũng đều có thể hiện. Quư vị ưa thích
ǵ, Ngài bèn
hiện thân ấy. Có
thể hiện cây cối, hoa, cỏ, mà cũng có thể hiện sơn hà, đại địa. Cái
thân hiện ra ấy, tức ứng thân ấy chắc chắn sẽ giúp cho
quư vị có ngộ xứ. Đạo lư cảm ứng được giảng rất nhiều trong kinh Hoa
Nghiêm, có hiển cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng (cảm rơ
rệt ứng ngấm ngầm), minh cảm minh ứng (cảm lẫn ứng đều âm
thầm), minh cảm hiển ứng (cảm âm thầm, ứng rơ rệt), quyết định có ứng!
Cảnh giới này cũng chẳng thể nghĩ bàn,
v́ sao?
Toàn thể vũ trụ, chúng ta nói
“vũ trụ” th́ khái niệm này chẳng rơ ràng
như đức Phật đă nói, đức Phật nói “pháp giới”. [Thuật ngữ] pháp giới chứa đựng nhiều ư
nghĩa hơn vũ trụ, vô lượng, vô biên! Chúng ta đọc phẩm Hoa Tạng Thế Giới [của kinh Hoa
Nghiêm] mới biết thế giới to lớn. Những điều các
nhà thiên văn đă nói
vẫn chưa vượt ngoài thế giới Sa Bà. Trong toàn
bộ vũ trụ, thế giới Sa Bà là
một chấm rất nhỏ, nhỏ tí, không đáng kể! Vũ trụ quá lớn, tự tánh quá lớn, vũ trụ do tự tánh biến hiện. Tự tánh là
một, cho nên
khắp pháp giới hư không giới là một Thể. Quư vị hăy suy nghĩ, trong pháp giới, trong mỗi cơi Phật đều có mười pháp giới. Trong Nhất Chân
pháp giới, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, sẽ không khởi tác dụng cảm ứng đạo giao cùng quư
vị, nhưng mười pháp giới th́
có. Chúng sanh trong mười pháp giới khởi tâm động niệm, mỗi niệm đều trọn khắp pháp giới, mỗi niệm xuất sanh vô tận, chứa đựng Không
và Có, ba thứ ấy đều trọn khắp, tốc độ quá nhanh, đồng thời! Chúng ta dấy lên ư niệm, bất luận là ư niệm ǵ,
ư niệm ấy vừa khởi lên sẽ trọn khắp pháp giới, tự tánh thảy đều thâu
nhận, nhận được tin tức ấy, nó
sẽ có phản ứng. Giống như tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă làm
thí nghiệm với nước. Trong thí nghiệm của ông ta, sự phản ứng khá chậm chạp, c̣n
phải mất thời gian mấy tiếng đồng hồ. Phản ứng của tự tánh
đối với hết thảy chúng sanh là ngay lập tức, đồng thời .
Nếu quư vị thật sự biết đạo lư và chân
tướng sự thật này, quư vị sẽ dấy ḷng cảm ơn chư Phật, Bồ Tát. V́ sao?
Chẳng thời khắc nào
không chiếu cố quư vị; không thời khắc nào chẳng quan tâm
quư vị, c̣n chu đáo hơn cha mẹ lo lắng cho con cái.
Cớ sao nay chúng ta trở thành
nông nỗi này?
Là do chính chúng
ta
không
quay đầu,
không biết khéo
học,
tự
làm
tự
chịu,
có cách
nào
đâu? Bất
luận
chúng
ta
đang ở
trong
đường nào, súc
sanh đạo
cũng
thế,
mà
ngạ quỷ đạo cũng vậy, địa
ngục
đạo
cũng
vậy,
đều quan
tâm như nhau. V́ vậy,
có thể thật
sự
dấy ḷng cảm ơn
Phật, Bồ Tát, quư vị sẽ thật sự học tập, có ư nguyện chân thành
học tập. Có thành ư, thành tựu cũng nhanh chóng! Ấn Quang đại sư dạy: “Mười phần thành ư, sẽ được
mười phần thu hoạch”.
Chưa học Hoàn Nguyên Quán, chúng ta vẫn chưa hiểu rơ
khái niệm này; chưa hiểu rơ
vẹn mười! Sau khi học Hoàn Nguyên Quán, chúng ta hiểu rất rơ, sẽ chân thật thể hiện ḷng cảm ơn đối với hết thảy chư Phật Như Lai,
rồi quay lại áp dụng [ḷng cảm ơn ấy] đối với hết thảy chúng sanh. “Hết thảy
chúng
sanh vốn
là
Phật”, thật vậy, “hết thảy chúng sanh là vị lai Phật”,
câu này
cũng là thật. Chắc chắn quư
vị sẽ chuyển biến trong mỗi đời, cảnh giới trong mỗi đời sau cao hơn đời trước, nhất định sẽ có ngày
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, trở về tự tánh.
Nói theo phương diện thế gian của nhân
loại, thời gian này rất dài, nhưng nói theo cơi
Thật Báo,
bên ấy chẳng có thời gian, cũng chẳng có không gian. Không có thời gian, sẽ chẳng có trước sau; không có không gian, sẽ chẳng có
khoảng cách. Đây là
diệu đế (chân
lư mầu nhiệm) “vô trụ sanh tâm”.
Tiếp theo đó, nói: “Phù chúng sanh chi sanh diệt tâm, xứ xứ năng
duyên, độc
bất
năng duyên ư Bát Nhă, tu vị đăng Biệt Giáo địa thượng chi Bồ Tát, phương năng
khế nhập” (Cái
tâm sanh diệt của chúng sanh, chỗ nào cũng có thể duyên, chỉ chẳng thể duyên nơi Bát Nhă.
Địa vị cần phải đạt đến Sơ Địa trong Biệt Giáo
trở lên mới ḥng khế nhập). Sơ Địa trong Biệt Giáo là
Sơ Trụ trong Viên Giáo,
kinh Hoa Nghiêm gọi địa vị này là
Sơ Trụ Bồ Tát, lúc ấy mới có
thể khế nhập. V́ sao?
Ngài chẳng dùng
sanh diệt tâm, chuyển bát thức thành tứ trí, tứ trí là Bồ Đề tâm, chuyển thức thành trí. Tứ trí là chân tâm, A
Lại Da là
vọng tâm, chuyển vọng trở thành chân, trí
huệ Bát Nhă trong tự tánh bèn mở mang,
hiện tiền. Bát Nhă là đức năng của tự tánh. Quư
vị đă kiến tánh, đức năng trong tự tánh thảy đều hiện tiền, quư vị được thụ dụng. V́
vậy, phải là
bậc Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên, là
Viên Giáo như trong kinh Hoa
Nghiêm th́ mới có thể khế nhập. Khế nhập là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Hôm nay lại hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
Tập 16
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang mười lăm, ḍng
số sáu từ dưới đếm lên,
xem từ câu
thứ hai.
“Phù chúng sanh chi sanh diệt tâm, xứ xứ năng duyên, độc bất
năng duyên ư Bát Nhă” (Cái tâm sanh diệt của chúng sanh, chỗ nào
cũng có thể duyên, chỉ chẳng thể duyên nơi Bát Nhă).
Đây là nói về tâm phàm phu, chúng ta cũng gọi nó
là “tâm luân hồi”, chưa ra khỏi lục đạo luân hồi, nhưng nó có tác dụng rất lớn, chỗ nào cũng có thể duyên, có thể duyên quá khứ, mà cũng có thể huyễn tưởng vị lai, cơi này
hay phương khác
nó đều có thể tưởng. Tuy có năng lực to dường ấy, kinh Phật bảo: Trong th́ nó
có thể duyên tới A
Lại Da,
bên ngoài có thể duyên hư không pháp giới, nhưng chẳng thể duyên tự tánh!
Bát Nhă là
đức năng của tự tánh;
do nó (sanh diệt tâm)
chẳng thể duyên
tự tánh, đương nhiên chẳng thể duyên
Bát Nhă. Trong kinh Hoa
Nghiêm, đức Phật nói: “Hết thảy
chúng
sanh đều
có trí huệ
và
đức
tướng của Như Lai”, điều này
tâm phàm phu chẳng duyên được, tâm sanh diệt của chúng sanh chẳng duyên được! Đến khi nào mới có thể duyên được? Kiến tánh sẽ duyên được. Minh tâm kiến tánh sẽ duyên
được, đức năng và trí huệ trong tự tánh đều hiện tiền. “Tu vị đăng
Biệt
Giáo địa thượng
chi Bồ Tát, phương năng
khế nhập” (Địa vị cần phải đạt đến Sơ Địa trong Biệt Giáo trở lên mới ḥng khế nhập). Sơ Địa trong Biệt Giáo là Sơ Trụ trong Viên Giáo,
kinh Hoa Nghiêm nói
là từ Sơ Trụ trở lên, c̣n Biệt Giáo là
từ Sơ Địa trở lên, Phật giáo Trung Quốc gọi người như vậy là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Khi ấy, người đó duyên tới [tự tánh], “mới có thể
khế nhập”, khế nhập là nhập tự tánh, đấy cũng là bậc minh tâm kiến tánh như chúng ta thường nói.
“Ư vô trụ thời tức
sanh
tâm, ư sanh tâm thời tức vô trụ” (lúc vô
trụ bèn sanh tâm, lúc
sanh tâm bèn
vô trụ). Đây là
cảnh giới minh tâm kiến tánh, sanh tâm là hiện tướng, sanh tâm ǵ? Sanh tâm độ chúng sanh.
Điều thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là
“chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”,
Ngài sanh tâm như thế nào?
Chúng sanh có
cảm, Phật bèn có ứng. Bậc Địa Thượng Bồ Tát trong Biệt Giáo,
Thập Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đều là chân Phật, trong Lục Tức Phật của Thiên Thai đại sư, [những vị này] được gọi là Phần Chứng Tức Phật, trên họ là
Cứu Cánh Tức Phật. Cứu Cánh Tức Phật chỉ có một [địa vị], kinh Hoa Nghiêm gọi địa vị ấy là Diệu Giác.
Phần Chứng Tức Phật có bốn mươi mốt địa vị, [tức là] Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác,
bốn mươi mốt địa vị này đều là Phần Chứng Tức Phật, là chân Phật, chẳng phải giả Phật. Phật trong mười pháp giới chẳng phải là chân Phật, mà
là Tương Tự Tức Phật, rất giống, v́ sao? Họ dùng A Lại Da, chưa chuyển thức thành trí. Chuyển thức thành trí chính là
các vị Địa Thượng Bồ Tát như đang nói ở đây, đă kiến tánh. Chưa chuyển thức thành trí là chưa kiến tánh. Đây là một kiến thức thông thường trong Phật giáo,
chúng ta phải biết. Ngài ứng hóa, là do chúng sanh có
cảm Ngài bèn ứng. Nên dùng
thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy. Thuở ấy, tại Ấn Độ, Thích Ca Như Lai “nên dùng thân Phật để độ”, Ngài bèn hiện Ứng Thân Phật có
ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tùy h́nh hảo, hiện thân tướng này.
Tại Trung Quốc, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư, xuất hiện vào thời Đường, cũng đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh,
chẳng khác ǵ Thích
Ca
Phật. Hiện ra cùng một cảnh giới, chỗ khác biệt là Ngài hiện thân tỳ-kheo,
Thích
Ca
Mâu
Ni
Phật hiện thân
Phật thân, tức thân
ba mươi hai tướng, tám mươi
tùy h́nh hảo. Huệ
Năng
đại
sư
tại
Trung
Quốc,
nên dùng thân tỳ-kheo để độ người, nên
Ngài hiện thân
tỳ-kheo. Đúng vậy, cả đời Ngài
độ hơn bốn mươi vị tỳ-kheo thành Phật, minh tâm kiến tánh, dùng thân tỳ-kheo. Khi Ngài hiện thân, thưa cùng
quư vị, Ngài là vô trụ, vô trụ có nghĩa là
ǵ? Hiện thân tướng chẳng khác
ǵ chúng ta, thân tướng ấy cũng sáng
dậy, tối ngủ, cũng mỗi ngày phải ăn cơm, mặc áo,
chẳng khác ǵ
hết. Chỗ thật sự không giống nhau là
chúng ta có
khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, Ngài không có. Do Ngài không có, nên
gọi là vô trụ. “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên chẳng trụ vào
đâu mà
sanh tâm), bậc Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trên thế gian, vô trụ và sanh tâm là
một, không hai, là cùng
một chuyện, ứng hóa trên thế gian.
Nếu c̣n có khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, chúng ta phải biết kẻ ấy là phàm phu, tức là phàm phu trong lục đạo. Kẻ khác nói
quư vị là
vị
Phật nào
đó hay Bồ Tát nào đó tái lai, chính ḿnh phải tự hiểu: “Giả trất, chẳng thật!” Giả có thể tu thành thật hay chăng? Có
thể!
Ở đây, chúng ta phải biết: Danh hiệu
của các vị Phật có
cùng tên là vô lượng vô biên,
danh hiệu của các vị Bồ Tát có cùng tên cũng là vô lượng vô biên. Quán Âm Bồ Tát chẳng phải là một người, nếu quư
vị nói là
một th́ sai mất rồi! Giống như vị thầy dạy học trong nhà
trường, Quán Âm Bồ Tát giống như thầy dạy môn Ngữ Văn, ở đây, nếu tôi
hỏi quư vị, trên thế giới này có
bao nhiêu vị giáo sư Ngữ Văn? Quư
vị sẽ hiểu rơ ngay! Chúng ta là phàm phu chấp trước, nói đến Quán Âm Bồ Tát bèn tưởng là một người, sai rồi! Nhiều lắm, vô lượng, vô biên, [những người] tu pháp môn [từ bi] này đều gọi là
Quán Âm Bồ Tát;
tu pháp môn Bát Nhă đều là Văn Thù
Bồ Tát;
tu mười đại nguyện vương đều là Phổ Hiền Bồ Tát;
tu hiếu thân tôn sư (hiếu thảo với cha mẹ,
tôn kính thầy) đều là
Địa Tạng Bồ Tát, các đồng học học Phật chớ nên không biết điều này. Trong số các
vị Bồ Tát nhiều ngần ấy, cảnh giới của các
Ngài có giống nhau hay không? Chẳng giống nhau!
Quư vị thấy trong kinh Hoa Nghiêm, từ địa vị Sơ Tín tới địa vị Đẳng Giác tổng cộng là
năm mươi mốt giai cấp, vị ấy là Quán Âm Bồ Tát thuộc địa vị nào? Từ ba bộ kinh, chúng ta thấy Quán Âm Bồ Tát không cùng
một địa vị. Trong kinh Hoa
Nghiêm, Quán Âm Bồ Tát là Đệ Thất Hồi Hướng Bồ Tát, tức là
Đệ Thất Hồi Hướng trong Tam
Hiền. Trong kinh Lăng Nghiêm,
Quán Âm Bồ Tát là
Sơ Trụ Bồ Tát, vừa mới chứng đắc Viên Thông. Trong kinh Pháp Hoa,
Quán Âm Bồ Tát là
Đẳng Giác Bồ Tát, khác nhau!
V́ vậy, nói Quán Âm Bồ Tát tái lai, th́
là Quán Âm Bồ Tát thuộc địa vị nào?
Nếu là Quán Âm Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Thập Tín, đúng vậy, Ngài là Quán Âm Bồ Tát, nhưng Ngài vẫn chưa thoát lục đạo luân hồi, công phu đoạn chứng chỉ bằng Tu Đà Hoàn,
nhưng Ngài tu pháp môn Quán Âm,
nhất định phải biết điều này. Đây là
hỏi xem, trong năm mươi mốt địa vị, Ngài thuộc địa vị nào, sai biệt rất lớn! Từ Sơ Trụ trở lên, đó là địa vị Phần Chứng, Pháp Thân đại sĩ, thật sự là
Pháp Thân đại sĩ. Nếu Ngài thuộc các địa vị trong Thập Tín, từ Sơ Tín tới Thập Tín,
Ngài chưa ra khỏi mười pháp giới; nhưng do Ngài tu pháp môn này, chẳng thể nói Ngài chẳng phải là Bồ Tát.
Nay chúng ta phát tâm nương theo kinh Vô Lượng Thọ, nương theo Tịnh Độ (nay là ngũ kinh) ngũ kinh nhất luận để tu hành, vậy th́ quư vị là ai? Thưa quư
vị, là A Di Đà Phật! Kinh này giảng rất rơ ràng, [người tu
pháp môn này]
chẳng phải kẻ tầm thường, tổ sư đại đức nói như vậy. Quư
vị chiếu theo pháp môn này, do Tịnh Tông lấy Quả làm
nhân, nên pháp môn này
rất đặc biệt, trong tám
vạn bốn ngàn
pháp môn chẳng hề “lấy quả
làm nhân”, chỉ có pháp môn này lấy quả làm nhân, quả là ǵ? Quả là A Di Đà Phật. Trong phần Khái
Yếu, ở phần sau, Hoàng lăo cư sĩ trích dẫn nhiều kinh
luận để giảng rơ chuyện này. V́ thế, người thông đạt kinh giáo sẽ hiểu rơ, chẳng chấp trước, liễu giải chân tướng sự thật. Thật sự thành tựu, nhất định là Sơ Địa trong Biệt Giáo hay Sơ Trụ trong Viên Giáo, mới được coi là thật sự thành tựu. Chưa đạt đến địa vị ấy, sẽ là
Tương Tự Tức Phật. Lại thấp hơn một tầng nữa, vẫn chưa đạt đến Tương Tự, chúng ta phải gia công dụng hạnh. Nói
theo Lư th́ là Danh Tự Tức Phật, chuyện này
ai nấy đều b́nh đẳng, hữu danh vô thực, v́ sao?
Tự tánh
của quư vị là Phật; do vậy, trong kinh, đức Phật dạy: “Hết thảy
chúng
sanh vốn
là
Phật”. Chúng ta bắt đầu học Phật, rất nghiêm túc
học Phật, nhưng công phu chưa đắc lực, khi ấy, gọi là Danh Tự Tức Phật, hữu danh vô thực, Danh Tự Tức Phật! Công phu đắc lực là
Quán Hạnh Tức Phật. Địa vị Quán Hạnh khá lắm, trong pháp môn Tịnh Độ, đạt đến địa vị Quán Hạnh được gọi là “công phu thành phiến”. Quán
Hạnh là công phu thành phiến, quyết định sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Tương Tự th́ sao?
Tương Tự sẽ không sanh vào cơi
Đồng Cư, mà sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, đó là Sự nhất tâm bất loạn. Lư nhất tâm bất loạn sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm,
đó chính là
các địa vị được nói đến ở đây: Địa Thượng trong Biệt Giáo, Thập Trụ Pháp Thân Bồ Tát trong Viên Giáo.
Mỗi tầng đều hiểu rơ
ràng, chúng ta tiến lên
từng cấp, tiến cao hơn, đó là đúng. Nâng
cao hơn, nâng
cao bèn buông xuống được, nhất định phải noi theo thứ tự thuận này:
Trước hết, phải buông chấp trước xuống. Quư vị nói trước hết ta buông khởi tâm động niệm xuống ư? Chẳng thể nào! Buông
khởi tâm động niệm xuống chính
là địa vị Diệu Giác, chẳng phải là Phần Chứng, đó là viên măn chứng đắc, ta chưa làm
được đâu! Chớ nên không
biết điều này!
Hiện thời c̣n
có vấn đề, ta vẫn chưa thể hiểu rơ vấn đề này! Chúng sanh có cảm, Phật ứng, đó là
Phật thuộc giai tầng nào
ứng? Nay chúng ta biết, trong cơi Thật Báo,
từ địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo [trở lên] bèn có năng lực này:
Nên dùng thân
Phật để độ người, bèn
hiện thân “ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo” để ứng. Nhà Phật nói
tới “Bổn Tích nhân duyên”, Bổn của Ngài Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo,
hiện Tích là Phật tướng, tức “ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo”.
Nếu nên hiện thân Đẳng Giác Bồ Tát, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí là Đẳng Giác Bồ Tát; hoặc cũng nên dùng
thân Phật để đắc độ, Ngài cũng hiện thân Phật. Vị Phật này là Đẳng Giác,
vị Phật kia là Sơ Trụ Bồ Tát, c̣n có vị viên
măn rốt ráo. Viên
măn rốt ráo là vị Phật do
tự tánh hiện ra
trong cơi
Thường Tịch Quang, tức là A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là địa vị Diệu Giác,
chẳng phải là Đẳng Giác,
đó là vị Phật rốt ráo viên măn. Thích Ca Mâu Ni Phật tới thị hiện trong thế giới này, thưa quư vị, Ngài là
địa vị viên măn, chẳng phải là
Đẳng Giác Bồ Tát, v́ sao?
Trong kinh Phạm Vơng, Ngài nói rất hay, Phật không vọng ngữ, nói toàn những lời thật. Ngài tới thế giới này,
thị hiện thân
Phật trong nhân gian, lần này là lần thứ tám ngàn, chẳng phải một lần, hai lần, mà
là tám ngàn
lần! Khi nào
Ngài đến? Chúng sanh có
cảm, Ngài bèn đến. Chúng sanh không có cảm, Ngài sẽ không ứng, cảm ứng đạo giao mà! Chính Ngài
tuyệt đối chẳng có
ư nghĩ: Chúng sanh rất khổ, ta phải đến giúp
đỡ họ. [Nếu có
ư nghĩ như thế], sẽ chẳng phải là Phật, v́ sao?
Khởi tâm động niệm! Bồ Tát có khởi tâm động niệm, không có phân biệt, chấp trước, nhưng có tập khí phân biệt, chấp trước. Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín không có phân biệt, chấp trước, nhưng có
tập khí phân biệt, chấp trước. Từ Sơ Trụ trở lên, không có phân biệt, chấp trước, khởi tâm động niệm cũng không có, nhưng có
tập khí khởi tâm động niệm. Bốn mươi mốt tầng cấp này là
do tập khí dày hay mỏng khác
biệt, chúng ta phải hiểu rơ.
Chẳng thể nói một vị Bồ Tát này là Đẳng Giác,
chẳng phải vậy, có
năm mươi mốt tầng cấp mà!
Nói một vị Phật là Diệu Giác ư? Không
nhất thiết! Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều có có
năng lực hiện thân Phật. Quư vị nghĩ tới vị Phật nào, Ngài bèn hiện ra vị Phật ấy. Vị Phật nào
có duyên với quư vị, Ngài bèn hiện ra vị Phật ấy. “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”,
chớ nên
không hiểu đạo lư này! Tuy hiện thân,
chắc chắn Ngài
không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ở đây, phải đặc biệt chú ư vọng tưởng, đó là khởi tâm động niệm, đấy là ǵ? Bậc Pháp Thân Bồ Tát, Sơ Trụ trong Viên Giáo chẳng khởi tâm,
chẳng động niệm.
V́ vậy, chúng ta ở trong thế gian này, tự
ḿnh
phải
thường
suy nghĩ, chúng
ta
vẫn
khởi
tâm
động
niệm,
c̣n
có
phân
biệt,
c̣n
có
chấp trước, đấy
có
phải
là
mê
khi
cách ấm hay chăng?
Nói “mê khi cách ấm”
cũng
có
lư!
V́ sao? Tất
cả
hết thảy chúng
sanh
chẳng một ai không mê khi cách ấm. Nếu Phật, Bồ Tát tới ứng hóa trong thế gian này, c̣n có mê
khi cách ấm hay chăng? Chúng ta có thể suy nghĩ: Trong mười pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát,
Phật thuộc tứ thánh pháp giới có thể là
mê khi cách ấm, v́ sao? Họ chưa kiến tánh. Chưa kiến tánh, nhưng trí huệ, đức năng, thần thông của những người tu
hành ấy lớn hơn chúng ta,
chúng ta chẳng thể sánh
bằng! Các Ngài có thể vào lục đạo độ chúng sanh hay chăng? Có! Những kẻ hữu duyên trong lục đạo, kẻ hữu duyên
nghĩ tới các
Ngài, các
Ngài cũng có cảm, sẽ ứng đến. Nhưng ứng thân của các Ngài
trong thế gian này là tiểu thánh, chẳng phải là đại thánh, là
Bồ Tát,
chẳng phải là Ma Ha Tát. Chư vị phải biết: Ngoài
mười pháp giới là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, [những vị Bồ Tát trong cơi
ấy] gọi là Ma
Ha Tát;
chúng ta gọi [những vị Bồ Tát trong] tứ thánh của mười pháp giới là Bồ Tát.
Do vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát
[có nghĩa như thế đó]. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă phó chúc
những Đại Bồ Tát phải thường hộ niệm Tiểu Bồ Tát,
v́ Tiểu Bồ Tát c̣n mê khi cách ấm. Họ cũng có tâm
từ bi, ứng hóa trong thế gian này,
có khi họ cũng bị mê
hoặc; nhưng họ rất thông minh, những vị Đại Bồ Tát ở bên cạnh chiếu cố họ, khi nào
duyên đă chín muồi, chỉ điểm họ, họ bèn tỉnh ngộ. Hễ tỉnh ngộ bèn
giác; sau khi giác, đúng là tối thiểu cũng buông phân biệt xuống. Đối với cảnh giới, tuy là kiến thức thông
thường, phổ biến, chớ nên không biết. Không biết th́ có khi chúng ta cũng bị mê trong ấy; [do
vậy], biến thành chướng ngại, chính ḿnh nuốn nâng cảnh giới lên sẽ khó
khăn, thậm chí tạo thành chướng ngại cho văng sanh trong tương lai. Giảng tới đây, chẳng thể không
rườm lời nói
thêm mấy câu!
“Kỳ dư địa tiền chư hiền, nhưng dĩ đả thành lưỡng tiệt” (những vị Bồ
Tát
trước khi chứng Sơ Địa,
vẫn
tách
thành
hai).
Đối với chữ Địa
Tiền này, trong
phần
trước
đă nói rất
rơ
ràng,
đây là Biệt
Giáo,
chẳng phải là Viên
Giáo.
[Địa Tiền nói trong câu này] là Địa
Tiền
của
Biệt Giáo, tức là Thập
Trụ,
Thập
Hạnh,
Thập
Hồi
Hướng
trong
Biệt Giáo, [c̣n
gọi
là]
Tam
Hiền Bồ
Tát.
Tam Hiền
Bồ Tát của Biệt
Giáo
chưa thoát khỏi mười
pháp
giới,
vẫn ở
trong
mười pháp giới, cũng
tức là nói họ “chưa
phá
căn bản vô minh”. V́ thế,
các
vị
hăy
xem,
điều ǵ bị tách thành hai? “Nhất
thời
sanh tâm, lánh nhất thời vô trụ” (thời này sanh tâm, thời khác vô trụ). Họ chẳng có cách nào, đấy
cũng
là như trong kinh Đại
Thừa
đă nói: Họ vẫn
chưa nhập pháp
môn
Bất Nhị! Tánh
-
Tướng
chẳng hai, chúng
sanh và Phật
chẳng hai, động - tĩnh
chẳng hai, họ hoàn
toàn
chưa
làm
được,
chưa đạt
tới
cảnh giới ấy!
“Khả kiến phàm phu tuyệt phận”
(có
thể
thấy
phàm phu chẳng
có
phần),
phàm
phu
thuộc lục đạo, làm sao có thể
hành
được? Làm sao có thể sánh với
người ta?
“Kim thử Tịnh Độ pháp môn,
giáo
chúng sanh tŕ danh niệm Phật, linh
chúng sanh tức niệm ly niệm, tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu, xảo nhập vô niệm, tức phàm thành thánh” (nay
pháp môn Tịnh Độ này dạy
chúng sanh tŕ danh niệm
Phật, khiến cho chúng sanh do niệm mà ĺa niệm, ngầm thông với Phật,
thầm
hợp
đạo mầu, khéo nhập vô niệm, từ ngay nơi phàm mà thành thánh). Đây
là
chỗ
mầu
nhiệm
của
pháp môn này, thật
sự
mầu nhiệm! Tôi không biết các quư vị đồng
học
thế
nào,
nhưng nếu
các đồng học chú
tâm
một chút, tâm
địa vọng niệm ít một chút, tôi
nghĩ các quư
vị sẽ phát hiện một hiện tượng, đó chính là pháp
duyên giảng kinh Vô
Lượng Thọ đặc biệt thù thắng. Chính tôi
đă suốt đời thể
nghiệm,
tôi đă
giảng
rất nhiều bộ kinh luận, nhưng
pháp duyên thù thắng
nhất
chính
là
kinh
Di Đà và kinh Vô
Lượng Thọ. Nói chung là
có duyên cớ, thính chúng
đặc biệt đông, pháp môn thù thắng, chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ đạo tràng,
chẳng giả tí nào!
Pháp môn tốt lành, nhưng người thật sự nhập cảnh giới này vẫn là thiểu số. Nói
theo lư luận, Thiện Đạo đại sư nói, Thiện Đạo đại sư là A Di Đà Phật tái lai, lời của Thiện Đạo đại sư do chính miệng A
Di Đà Phật nói ra, pháp môn này là “vạn người
tu,
vạn người
đến”.
V́ sao có người tu pháp môn này chưa thể thành tựu? Phật không có vấn đề, pháp môn cũng chẳng có
vấn đề, kinh điển cũng không có
vấn đề, vấn đề do người tu hành mà có!
Người ấy bụng dạ vướng mắc cả đống chuyện, chẳng buông xuống được. “Tức niệm”,
kẻ ấy chẳng ĺa niệm, “tức niệm” là A Di Đà Phật; “ly niệm”, là như trong phần trước đă nói,
niệm một câu A Di Đà Phật này để thay thế, trừ khử trăm ngàn vạn ức vọng tưởng, tạp niệm, đó là thật sự niệm Phật. Một mặt niệm A Di Đà Phật, nhưng trong ấy vẫn xen tạp vọng tưởng, tạp niệm công phu niệm Phật bị phá hoại; cho nên
quư vị chẳng có
cách nào! “Tiềm thông Phật trí, ám hợp
đạo
diệu”. Quư vị thấy [lời chú
giải] giảng rơ
ràng lắm, minh bạch lắm, quư
vị phải do niệm mà
ĺa niệm, niệm A Di Đà Phật, trong tâm chỉ có một niệm A Di Đà Phật này, chớ nên xen tạp vọng niệm vào đấy. V́ vậy, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức dạy chúng ta đừng hoài nghi, đừng xen tạp, đừng gián đoạn, niệm như vậy quư vị sẽ có thể “tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu”,
v́ sao?
Quư vị niệm Phật đă niệm đến mức nhất tâm. Sự nhất tâm có
địa vị bằng với tầng cấp A La Hán và
Bích Chi Phật. Lư nhất tâm có
cảnh giới giống như bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ từ Sơ Trụ trở lên
trong Viên Giáo. Quư
vị có thể niệm tới nhất tâm bất loạn. Hơn nữa, phương pháp này đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích
đáng, đáng tin cậy, chẳng phiền phức tí nào,
chẳng thông Giáo
cũng không sao! Do vậy, có nhiều người chẳng biết chữ, chưa từng học kinh giáo, niệm một câu A Di Đà Phật này mấy năm, đúng là ư niệm ǵ cũng mất, niệm tới mức nhất tâm bất loạn, nhưng chính người ấy hoàn toàn
không biết, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sanh vào
cơi Phương Tiện, người như vậy rất nhiều. Người sanh vào
cơi Thật Báo có
lẽ ít hơn một chút, chứ người sanh vào cơi Phương Tiện rất nhiều. Họ đă bỏ được chấp trước, chẳng chấp trước ǵ hết, cứ đơn giản là kinh dạy quư vị chấp trước danh hiệu, chấp tŕ danh hiệu, “chấp” là
chấp trước, “tŕ” là nắm vững vàng, nắm chặt, tức là
[giữ chặt] một câu Phật hiệu này. Ngoài một câu Phật hiệu này ra,
tạp niệm ǵ cũng đều không có, vọng tưởng ǵ cũng đều không có, đó là
niệm Phật công phu thành phiến. Công
phu thành phiến sẽ sanh vào
cơi Đồng Cư. Sanh trong cơi
Đồng Cư cũng thành thánh nhân. Thế giới Cực Lạc không có phàm phu, đều là thánh nhân, do
phàm mà thành thánh!
“Cố Sớ Sao viết” (Do vậy, sách Sớ Sao nói), [tức là]
Liên Tŕ đại sư nói: “Việt tam kỳ ư nhất niệm,
tề chư thánh ư phiến ngôn” (vượt ba A-tăng-kỳ trong một niệm, bằng với chư thánh do một lời). [Vượt] tam kỳ là người nào vậy? Nay
chúng ta hiểu rất rơ ràng, theo kinh Hoa Nghiêm đă dạy, từ Sơ Trụ tới Đẳng Giác là
bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, các Ngài đoạn hết vô minh, nhưng tập khí vô
minh vẫn c̣n. Tới Đẳng Giác mới đoạn hết tập khí vô minh,
cần thời gian bao lâu?
Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Vượt thoát
ba đại A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm chính là
do một tiếng Phật hiệu này bèn
vượt qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp. “Tề chư thánh” (bằng với chư thánh):
Chư thánh là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. “Phiến ngôn” (một lời) là bốn chữ A Di Đà Phật, chính
là một một câu này. Bằng ǵ?
Bằng với Pháp Thân, chẳng phải là
hạng Bồ Tát thông
thường. Pháp Thân đại sĩ là Ma Ha Tát, c̣n có ǵ
thù thắng hơn pháp môn này? T́m
chẳng ra! Do vậy, chúng ta học kinh này,
quư vị c̣n có vấn đề ǵ nữa chăng? Quư
vị học kinh này, mười phương ba đời hết thảy chư Phật hộ niệm quư vị, tuy quư vị chẳng thấy các Ngài, các Ngài thấy quư vị. Trước đây, chúng ta c̣n có nghi vấn, nay chẳng c̣n nghi vấn, chúng ta tin tưởng, khẳng định rồi! V́ sao?
Sách Hoàn Nguyên Quán đă giảng ba thứ trọn khắp, bất luận là một mảy lông
nơi chánh báo hay một vi trần trong y báo, sự dao động của chúng trọn khắp pháp
giới trong mỗi niệm, niệm niệm xuất sanh vô tận, niệm niệm hàm dung Không và
Có; v́ vậy, chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác,
mười phương chư Phật đều thấy. Chúng ta chân tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, hết thảy chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Phước báo
này như thế nào? Ba đời chư Phật hợp nhau cùng nói vẫn chẳng thể giải thích
rơ ràng, v́
phước báo ấy quá
to! Câu danh hiệu này, trên thực tế là tổng cương lănh của hết thảy các kinh điển do mười phương ba đời chư Phật đă tuyên dương, mà cũng là chỗ quy y của hết thảy các kinh điển. Do vậy, những điều vừa nói trên
đây chẳng phải do một ḿnh
cụ Hoàng Niệm Tổ nói, Hoàng lăo cư sĩ cũng chỉ tiếp nhận, vâng
theo lời lịch đại tổ sư đại đức đă nói,
xứng tánh cực đàm, giảng đến rốt ráo viên măn chính là
một câu danh hiệu này.
“Chí tai diệu dụng,
bất
khả tư nghị” (diệu dụng cùng tột thay, chẳng thể nghĩ bàn), đă đến tột đỉnh! “Kỳ
tha pháp môn năi chánh nhập
vô sanh, cố vi nan hành đạo” (Những pháp
môn khác nhập thẳng vào
Vô Sanh, nên
là đạo khó
hành), “chánh nhập” là
ǵ? Thực hiện từng bước một, tiến lên
theo từng cấp bậc một, tiến cao lên dần, giống như năm mươi mốt địa vị được nói trong kinh Hoa Nghiêm,
đó là
“chánh nhập”, thời gian rất dài. “Kim thử
tịnh nghiệp,
xảo nhập
vô sanh, cái dị hành đạo dă” (Nay Tịnh nghiệp khéo
nhập Vô Sanh nên là
đạo dễ hành), nó quá
xảo diệu (khéo léo,
tuyệt diệu), chẳng phải là tiến lên từng cấp một, mà bất tri bất giác viên măn, đạt tới tột đỉnh, do vậy, nó là
đạo dễ hành. “Niệm Phật pháp môn năi tu hành chi kính lộ” (pháp môn
Niệm Phật là đường tắt trong sự tu hành), “kính lộ” (徑路) là đường gần; đường tắt. “Nhi
tŕ
danh nhất
pháp hựu
vi tứ chủng niệm
Phật
trung chi kính lộ,
cố xưng
vi
kính
trung chi kính” (nhưng tŕ
danh lại là
đường tắt trong bốn món Niệm Phật, nên được gọi là đường tắt nhất trong các con đường tắt), là đường gần nhất trong các con đường gần. Trong bốn món Niệm Phật này, Quán
Kinh có nhắc tới [ba món], Quán
Kinh giảng Quán
Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, và Tŕ
Danh Niệm Phật, đều là những pháp
chúng ta thường tu. Một loại khác chúng ta không làm được là
Thật Tướng Niệm Phật. Khi
nào tu Thật Tướng Niệm Phật? Từ Sơ Trụ trở lên
tu Thật Tướng Niệm Phật. Vừa rồi, trong phần trích
dẫn, cụ Hoàng
đă nói
từ Sơ Địa trong Biệt Giáo
trở lên, tức là từ Sơ Trụ trong Viên
Giáo trở lên,
niệm Phật khi ấy là
Thật Tướng Niệm Phật, chẳng phải là Tŕ Danh Niệm Phật. Trong bốn món
Niệm Phật, Tŕ
Danh là đường tắt. Do vậy, theo kinh Hoa
Nghiêm, bậc đă chứng đắc từ Sơ Trụ trở lên phải tu
pháp môn Niệm Phật, cách niệm Phật của các Ngài thuộc loại Thật Tướng Niệm Phật.
“Hựu bổn kinh bất xướng nhất tâm bất loạn” (Lại nữa, kinh này
chẳng đề xướng nhất tâm bất loạn), “xướng” (倡) là đề xướng, kinh Vô Lượng Thọ không đề xướng nhất tâm bất loạn, v́ sao? Nhất tâm bất loạn quá khó, đúng là
chẳng dễ làm được. Sự nhất tâm bất loạn là
đă đoạn Kiến Tư phiền năo,
chứng nhập bằng quả A La Hán. Lư nhất tâm bất loạn đă đoạn Trần Sa
phiền năo,
phá Vô Minh phiền năo,
[cảnh giới ấy] bằng với “minh tâm kiến
tánh,
kiến tánh thành Phật”, chẳng phải là chuyện dễ. V́ vậy, kinh này chẳng nói tới nhất tâm bất loạn. “Trực dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm
A
Di Đà Phật vi Tông” (thẳng thừng lấy phát
Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm A
Di Đà Phật làm Tông). Phát Bồ Đề tâm,
một bề chuyên niệm, chẳng phải là nhất tâm bất loạn. Một bề chuyên niệm th́
chúng ta làm được, một phương hướng, một mục tiêu, chuyên niệm A Di Đà Phật sẽ làm được! Nhất tâm bất loạn chẳng dễ ǵ làm được, v́ phải đoạn phiền năo. Khuất phục phiền năo th́
sự khuất phục ấy chẳng phải là nhất tâm bất loạn; đoạn hết phiền năo mới là nhất tâm bất loạn, quư vị biết nhất tâm bất loạn quá khó. Nhưng kinh Di
Đà nói “nhất tâm bất loạn”, và “tâm chẳng điên đảo”! Kinh Di Đà và bộ kinh này là cùng một bộ, nội dung như nhau; quư
vị phải biết: Theo bản dịch kinh A
Di Đà của Huyền Trang đại sư th́ là
“nhất tâm hệ niệm”, chẳng phải là nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là
do La Thập đại sư dịch, Ngài dịch cũng rất có
lư! Công phu của chính ḿnh là nhất tâm hệ niệm, lâm chung Phật đến tiếp dẫn, trước hết, Phật quang chiếu tới quư
vị; khi Phật quang chiếu gội, được Phật lực gia tŕ, khiến cho công phu của quư vị được nâng
lên gấp bội. Quư vị thật sự đạt được nhất tâm hệ niệm, đó là công phu thành phiến, ngay lập tức bèn được nâng
cao lên thành
nhất tâm bất loạn. V́ vậy, La Thập đại sư hoàn toàn
chẳng dịch sai, đích xác là
[hành nhân khi văng sanh] được bổn nguyện và oai thần từ bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà gia tŕ;
nhưng đối với kẻ sơ học chúng ta mà nói, do
rất nhiều người thấy chữ “nhất tâm bất loạn” mà
cảm thấy pháp môn này vẫn chẳng dễ tu, không dám tu pháp môn này, ngă ḷng! Thấy “Phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”,
bèn nghĩ chính ḿnh vẫn có
thể, điều này
c̣n có thể làm được. Bồ Đề tâm sẽ được giải thích tỉ mỉ trong phần sau. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư giảng rất tuyệt: Quư vị thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, tâm ấy là vô thượng Bồ Đề tâm. Cổ nhân chưa hề nói, Ngẫu Ích đại sư nêu ra cách
giải thích như thế khiến cho chúng ta nghĩ đến rất nhiều ông lăo bà
cụ chẳng biết chữ, cũng chưa từng học hành, mà
cũng chưa nghe Phật pháp, người ta dạy họ niệm một câu “A Di Đà Phật”, họ bèn
thật thà niệm, niệm tới cuối cùng c̣n có thể đứng văng sanh, biết trước lúc mất, tướng lành
hy hữu. Dường như họ chẳng phát Bồ Đề tâm! Dường như trực tâm, thâm
tâm và đại bi tâm được nói
trong Bồ Đề tâm họ chẳng phát,
cớ sao họ niệm Phật bèn
có thể văng sanh? Họ chẳng biết phát Bồ Đề tâm là
ǵ, nhưng quư vị quan sát kỹ lưỡng, sẽ thấy trực tâm, thâm tâm, và
đại bi tâm họ đều trọn đủ. Họ bất tri bất giác phát ra, đă phát, nhưng chính ḿnh vẫn không biết, nhất tâm nhất ư cầu sanh Tịnh Độ, mong thấy A Di Đà Phật, tâm chân
thành trọn đủ. Thâm tâm là thanh tịnh b́nh đẳng giác, họ có,
tuy chưa viên măn, nhưng họ có từ bi tâm!
“Đản năng
phát tâm chuyên niệm,
giai
khả văng sanh. Cố cánh vi minh xác giản yếu” (Chỉ cần có thể phát tâm
chuyên niệm, đều được văng sanh. Do vậy, pháp này
càng là rơ
ràng, xác thực, đơn giản, tóm tắt), “minh” là minh bạch, “xác” (確) là chân thật, [giản yếu là]
đơn giản, tóm tắt. Quư vị thấy pháp môn này,
“thị cố thử kinh xưng
vi
Tịnh
Tông đệ
nhất kinh”, lưu truyền tới khi Phật pháp trên thế gian này diệt sạch, tới cuối cùng,
hăy c̣n
bộ kinh này tồn tại trên thế gian một trăm năm, từ chỗ này, chúng ta có thể suy ra sự thù thắng của bộ kinh điển này.
“Nhân kỳ vi trực tiệt
trung
chi trực tiệt, phương
tiện trung chi phương
tiện. Tuyệt
đăi viên dung, bất khả
tư nghị”
(do v́
pháp này thẳng gọn nhất trong các
pháp thẳng gọn, thuận tiện nhất trong các pháp
phương tiện, dứt bặt đối đăi một cách
viên dung, chẳng thể nghĩ bàn). Đây là
lời thật, chẳng giả tí
nào! Hết thảy chúng sanh trong lục đạo có thể gặp gỡ [pháp môn này], chắc chắn đắc độ trong một đời này,
nhất định vượt thoát
lục đạo luân hồi. Không chỉ vượt thoát
lục đạo, người ấy c̣n vượt thoát mười pháp giới, điều này
thù thắng chẳng thể tưởng tượng được!
“Nhật Bản
Tịnh
Tông đại
đức thôi trọng
thử kinh quá ư ngă quốc” (Các bậc đại đức trong Tịnh Tông Nhật Bản đề cao kinh này
c̣n hơn nước ta), đúng vậy! Trong Đại Tạng Kinh Nhật Bản, [các tác
phẩm] nghiên cứu và
chú giải kinh Vô
Lượng Thọ rất phong phú. Nh́n lại Trung Quốc, các vị tổ sư đại đức từ xưa chú
giải kinh này rất ít, chỉ có mấy loại. Do nguyên nhân ǵ? Cư sĩ Bành Tế Thanh nói rất khéo, do kinh này không
có bản tốt nhất! Không ít vị đại đức đă khẳng định câu nói
này của ông Bành! Ông
ta nói rất hay, quả thật là
v́ kinh này chưa có
bản tốt nhất. Đọc trọn cả năm bản dịch gốc vào
thời cổ là
chuyện chẳng dễ dàng cho lắm! V́ khi ấy, kinh sách
quá ít, chẳng phải là ấn loát,
mà là chép
tay. Ngay cả cư sĩ Vương Long Thư có thân
phận như vậy, là
một vị trưởng giả giàu sụ, vẫn chưa thấy trọn năm bản dịch gốc, chỉ thấy bốn loại. Ông
ta chưa được thấy bản dịch đời Đường, tức bản Vô
Lượng Thọ Như Lai Hội trong kinh Đại Bảo Tích; do vậy, bản hội tập của ông ta chỉ gồm bốn bản dịch gốc, thật đáng tiếc! Bởi lẽ, trong Vô Lượng Thọ Như Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích có rất nhiều phần đặc sắc mà bốn bản kia không có! Nhưng người Nhật Bản hữu tâm, khi tới Trung Quốc du học, đối
với những bản kinh sách
tốt đẹp đều thâu
thập toàn bộ đem về. Chính
chúng ta đă coi nhẹ chuyện này, chẳng thu thập, bị người Nhật Bản thu thập đem đi. Có nhiều thứ từ Nhật Bản truyền ngược trở về [Trung Quốc], điều này
nhờ vào công đức của cư sĩ Dương Nhân Sơn. Vào
những năm cuối đời Thanh, cư sĩ Dương Nhân Sơn là tham tán
tại Đại Sứ Quán ở Nhật Bản. Ông ta đối với Phật pháp hết sức lưu ư, do vậy, t́m
ṭi tại Nhật Bản, rất nhiều thứ đă bị thất truyền cả mấy trăm năm tại Trung Quốc, trong mục lục [Đại Tạng Kinh] có ghi, nhưng chẳng thấy sách
đâu, tại Nhật Bản th́ thấy. Do
vậy, ông ta bèn dựa theo mục lục để t́m
tại Nhật Bản, t́m
ṭi rất nhiều, t́m được chẳng ít,
đem trở về Trung Hoa; đặc biệt là những chú
sớ của kinh luận Pháp Tướng Duy Thức.
Tiếp đó, những phần được trích dẫn đều là chú
giải của người Nhật Bản. “Nhật Hắc Cốc Đại Kinh Thích vân” (Bộ Đại Kinh Thích
của sư Hắc Cốc[2] người Nhật), “Đại Kinh Thích” là tác
phẩm giải thích
kinh Vô Lượng Thọ, trong đó có
một đoạn như sau: “Ư văng sanh giáo, hữu căn bản, diệc
hữu chi mạt” (đối với giáo pháp văng sanh, có pháp
là căn bản, mà
cũng có pháp
cành nhánh), văng sanh là
niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, người Trung Quốc gọi “văng sanh giáo” là Tịnh Độ Tông. Sư nói [văng sanh giáo] có
căn bản mà cũng có cành nhánh. “Thử kinh danh căn bản, dư kinh danh chi mạt” (kinh này
là căn bản, những kinh khác là
cành nhánh), kinh chuyên giảng Tịnh Độ gồm ba bộ, kinh Vô
Lượng Thọ là căn bản, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và kinh A
Di Đà là cành nhánh. Trong khi đức Phật giảng kinh, thuyết pháp đă giảng kèm thêm
Tịnh Độ, giảng pháp môn niệm Phật cầu sanh Di Đà Tịnh Độ, đại khái có từ hơn một trăm tới gần hai trăm bộ kinh, đương nhiên những kinh ấy là
“cành nhánh của cành nhánh”. “Hựu thử
kinh danh chánh văng sanh giáo, dư danh bàng văng sanh giáo. Hựu
thử kinh danh văng sanh cụ túc giáo, tha kinh danh văng sanh bất cụ túc giáo” (Hơn nữa, kinh
này là chánh
văng sanh giáo,
những kinh khác
là bàng văng
sanh giáo. Lại nữa, kinh này gọi là văng
sanh giáo trọn đủ, những kinh khác gọi là văng
sanh giáo chưa trọn vẹn), đây là
cách nói
khái luận của người Nhật Bản đối với bộ kinh này.
Những người Nhật Bản này đều tới Trung Quốc du học vào thời đại Tùy
- Đường, thân cận Trí Giả đại sư, hoặc thân cận Thiện Đạo đại sư, nhiều vị đều là học tṛ của Thiện Đạo đại sư. Thuở Thiện Đạo đại sư tại thế đă giảng bộ kinh này,
các vị ấy đều đích thân nghe giảng nơi pháp ṭa
của Ngài.
“Cứ thượng
chi nghĩa,
Tịnh
Độ Tông thí như Diệu Cao phong đầu,
nhi
bổn
kinh chánh như phong đầu
chi đảnh tiêm. Bổn kinh vị đương lai nhất thiết
hàm linh, giai y thử pháp nhi đắc độ
thoát” (theo nghĩa trên đây, Tịnh Độ Tông ví như đỉnh núi Diệu Cao, mà
kinh này lại như chóp
đỉnh của đỉnh núi. Kinh này
sẽ làm cho hết thảy các hữu t́nh trong tương lai do
nương theo pháp này
bèn được độ thoát), nhận định này có cùng
một ư nghĩa như tôi đă nói
trong phần trước, hết thảy chúng sanh trong chín
pháp giới đều nương vào
pháp môn này để độ thoát luân hồi, vượt thoát mười pháp giới. “Thị tri lợi
tế chúng sanh, thử
kinh vi tối. Tŕ danh chi pháp, ám hợp đạo diệu, tối
dị hành cố” (do vậy, kinh này
lợi lạc chúng
sanh lớn nhất; pháp tŕ
danh thầm hợp đạo mầu, dễ hành nhất). Trong thời đại này, cuộc sống của chúng ta vô
cùng gian nan, chướng duyên nghiêm trọng khôn sánh, bản thân chúng ta phải suy nghĩ, trong thời gian ngắn ngủi, tạm bợ của kiếp sống này,
chúng ta phải làm như thế nào
để nắm chắc sự thành tựu chân thật cho chính ḿnh? V́
sao? Chính ḿnh chẳng thành tựu, sẽ chẳng thể lợi lạc chúng sanh. Các bậc đại thánh đại hiền trong pháp thế gian và
Phật pháp,
không vị nào chẳng dạy chúng
ta: Thành tựu chính ḿnh
rồi mới có
thể thành tựu người khác. Chính ḿnh chẳng có thành tựu, nếu muốn hoằng pháp lợi sanh, đức Phật thường nói: “Vô hữu thị xứ” (chẳng có
lẽ ấy). Đúng là ḷng
th́ có thừa, nhưng sức chẳng đủ, quư vị chẳng làm
được. Nhất định là trước hết phải thành tựu chính ḿnh. Tứ Hoằng Thệ Nguyện là nguyên tắc chỉ đạo tốt nhất, phải phát nguyện lớn: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”,
phải độ tận hữu t́nh
trong chín pháp
giới, đấy là
phát đại Bồ Đề tâm. Quư vị độ họ bằng cách nào?
Quư vị chưa độ chính ḿnh được, sẽ chẳng thể độ người khác. Phải tự độ ra sao? Đầu tiên là đoạn phiền năo, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn. Kiến Tư phiền năo vô tận, Trần Sa
phiền năo vô tận, Vô Minh phiền năo vô tận, đoạn bằng cách nào?
Ngay trong cuộc sống hằng ngày, học ǵ?
Nguyên tắc chỉ đạo chung là học “chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước”,
đó là tổng cương lănh, tổng nguyên tắc. Đối với tế hạnh trong cuộc sống hằng ngày, Đại Thừa nói tám vạn tế hạnh, Tiểu Thừa nói
ba ngàn oai nghi, từng ly từng tí
trong cuộc sống, đức Phật dạy chúng sanh đừng chấp trước từng điều nhỏ nhặt một!
Bắt đầu học từ đâu? Trong Phật giáo, Tịnh nghiệp học nhân bắt đầu từ bằng “tam phước”; nếu quư
vị chưa thể tự độ, sẽ chẳng thể có
phước báo. V́
vậy, mở kinh Phật ra,
thiện nam tử, thiện nữ nhân, có
thiện căn, có phước đức, kinh Di Đà kinh nói: “Bất khả
dĩ thiểu
thiện căn,
phước đức,
nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc”
(Chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà sanh về cơi
ấy). Thiện căn và phước đức học từ Tam Phước, đó là
phước đức chân chánh. “Hiếu dưỡng phụ
mẫu, phụng
sự sư trưởng”, quư vị thấy phước tu từ đâu? Từ hiếu dưỡng phụ mẫu. Kẻ chẳng hiếu thảo với cha mẹ sẽ chẳng có phước, niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh, kẻ không biết tôn sư trọng đạo cũng chẳng thể văng sanh! Thân
mạng của quư vị do cha mẹ mà có,
huệ mạng của quư vị do thầy mà có.
Quư vị thấy hai câu
này được đức Phật xếp trước hết.
“Hiếu
dưỡng phụ
mẫu, phụng
sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp”.
V́ vậy, có những đồng học hỏi tôi:
“Thưa pháp sư, v́
sao thầy phải đề xướng Cảm Ứng Thiên?
V́ sao đề xướng Đệ Tử Quy? Những thứ ấy không phải của Phật giáo!”
Tôi bảo họ: “Những thứ ấy đều là của Phật giáo” [Họ căi]: “Trong Phật giáo không có nói!” Ai bảo không có nói? Điều thứ nhất trong Tịnh nghiệp tam phước là
“hiếu dưỡng
phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng”,
quư vị coi thử Đệ Tử Quy có
giảng [những điều ấy] hay không? Có!
Làm thế nào
để thực hiện hai câu ấy? Thực hiện Đệ Tử Quy, quư vị sẽ thực hiện được [hai câu
ấy]. “Từ tâm chẳng giết”, quư vị thi hành Cảm Ứng Thiên liền làm
được câu này.
Ba câu trên
đây là
cơ sở, tiếp theo là
“tu Thập Thiện nghiệp” mới có thể làm được. V́ sao chưa làm được Thập Thiện nghiệp? Do chưa làm được ba câu trên.
Ba câu trước đó chính là Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên,
chưa làm được! V́ vậy, quư
vị chưa làm được Thập Thiện nghiệp, [như vậy th́ đề xướng Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên] c̣n sai nữa hay không? Tôi thấy chẳng sai! Do
đó, thật sự học Phật, nay chúng ta phải nương theo lời giáo huấn của Ấn Quang đại sư; Ấn Quang đại sư dạy chúng ta phải vun
bồi vững vàng
cội rễ bằng Cảm Ứng Thiên. Căn bản thứ nhất là Cảm Ứng Thiên, giáo dục nhân quả, quư vị thật sự liễu giải đạo lư nhân quả, liễu giải chân tướng sự thật, sẽ không chỉ chẳng dám làm ác, mà ngay cả ác niệm cũng chẳng dám dấy lên. V́
sao? Động một niệm bất thiện, ba thứ “trọn khắp” đều có,
trọn khắp pháp giới, ai mà không biết? Khắp hư không,
trọn pháp giới, tất cả hết thảy Phật, Bồ Tát, A La Hán thảy đều biết. Chẳng thể gạt ai!
[Có muốn] gạt ai cũng chẳng được! Một niệm của quư
vị trọn khắp pháp giới, một niệm xuất sanh
vô tận. Xuất sanh
vô tận là ǵ? Thiện niệm sanh ra thiện công đức, ác niệm sanh ra những điều ác
độc, có báo ứng. Không dám động niệm th́
c̣n dám làm
nữa ư? So với luân lư, đạo đức, so với bất cứ loại giáo dục nào, cũng đều hữu dụng hơn! Có
rất nhiều kẻ học hành
rất giỏi, nhưng bất hiếu với cha mẹ, phản thầy, nghịch đạo, họ dám làm, do
nguyên nhân ǵ vậy? Cổ nhân bảo là
“lợi dục
huân tâm” (mờ mắt v́
lợi lộc, dục vọng). Họ bị danh lợi trước mắt mê hoặc, biết rơ,
nhưng vẫn cố phạm. Biết sai lầm, mà vẫn muốn làm; nhưng nếu kẻ ấy hiểu nhân quả, sẽ chẳng dám
làm, v́ sao? Những ǵ
quư vị đạt được trong hiện tiền là
một chút
danh lợi bé tẹo, trong tương lai phải trả giá
quá to, [biết như vậy] liền chẳng dám
làm nữa!
Nói tới chỗ này, hai hôm nay, có đồng học đưa cho tôi xem một quyển sách, “Khải Tát quân đoàn
Đông chinh chi mê” (bí
ẩn về đoàn quân chinh phục phương Đông của Caesar). Hai ngàn năm trước, đại đế Khải Tát (Caesar) của đế quốc La
Mă nghe nói Trung Quốc rất giàu có, muốn chiếm lănh Trung Quốc, phái mười vạn đại quân, thật sự tiến đến vùng
Cam Túc của Trung Quốc, toàn quân
thảm bại. Thống soái cầm đầu đoàn quân này
là con trai thứ ba của Khải Tát, tức tam vương tử. Gần đây, chuyện này do một quỷ hồn dựa vào một bé gái
nói ra, có
nhiều người tới đó điều tra, thấy là chuyện thật, chẳng giả, lời quỷ nói là
chuyện có chứng cứ. Đă hai ngàn năm rồi, bọn họ cũng rất may
mắn, gặp được Bồ Tát,
nhà Phật đúng là từ bi, Bồ Tát bảo họ: “Nơi này của Trung Quốc, chẳng phải của quư vị. Quư
vị đến đây làm ǵ?”
Họ thưa: “Chúng
con không biết”.
Tôi đọc tới câu nói
này của Bồ Tát, liền lập tức nghĩ tới người Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, chiến tranh tám năm, cuối cùng đầu hàng, đó là như Bồ Tát đă nói:
“Trung Quốc chẳng phải của quư vị, quư vị không có phước báo này, quư vị tới làm ǵ?” Quư vị thấy đó: Làm
đế vương, quư vị có
phước báo lớn cỡ nào, có lănh thổ to cỡ nào, có bao nhiêu nhân dân, trong mạng đă định sẵn! Không có phước phần ấy, quư
vị muốn xâm lược người khác, nếu thắng trận, thật sự thôn tính được, nói chung, quư
vị cũng chẳng thể chết tốt lành, thiếu phước báo mà!
Đúng là
Khải Tát chẳng chết an
lành, ông ta chết tại Trung Quốc. Lịch sử chép ông ta bị người khác mưu sát,
nhưng kết quả là mưu sát kẻ thế thân,
chẳng phải nhà vua, mà
là một viên
quan hầu cận rất trung thành. Người bị giết mặc y phục nhà vua ở bên
ngoài, nên người ta tưởng nhà
vua bị giết chết. Trong cơn hỗn loạn, vua đào tẩu, cũng trốn tới Trung Quốc, chết ở Cam Túc. Cớ ǵ
phải vậy? Đúng là
“Nhất ẩm,
nhất trác, mạc phi tiền định” (miếng ăn, hớp uống, không ǵ
chẳng được định sẵn), chớ nên cưỡng cầu. Cưỡng cầu, cướp đoạt lấy, hay lén trộm lấy, đều là do trong mạng quư
vị sẵn có, quư vị [phải phí
uổng tâm cơ làm chuyện đó] có
oan uổng hay chăng? Quư vị không cần đoạt, chẳng cần phải giở tṛ trộm cắp, lâu
đạt được hơn một chút
th́ bất quá
một hai năm sẽ có, cớ ǵ phải nóng ḷng? Tạo tội nghiệp ấy, thật đáng sợ! Sau khi xem xong tác phẩm này, [tôi nghĩ] nếu một kẻ lănh đạo đất nước sau khi đọc xong sẽ chẳng dám
phát động chiến tranh. Đó chẳng phải là chuyện tốt, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp.
V́ vậy, tổ Ấn Quang suốt đời đề xướng nhân quả, có thể nêu ra rất nhiều ví dụ, những tác
phẩm được Ngài
nêu lên đều của Đạo Gia, như Ngọc Lịch Bảo Sao chẳng hạn, Ấn Quang đại sư đề xướng lưu thông cuốn sách
ấy. Ngài dạy người học Phật phải đọc Cảm Ứng Thiên, Ngài có
lư. Đó là sự thật, tuyệt đối chẳng phải là mê tín, chẳng phải Ngài dùng các tác phẩm đó để hù dọa con người! Thiện có thiện quả, ác có
ác báo. Hiện tại, tạo tác cái
nhân ác nghiệp, trong đời quá
khứ, quư vị tích lũy đại phước, tu đại thiện, do quư vị làm ác nên phước báo đă có
trong mạng bị suy giảm với một mức độ lớn, c̣n
một chút
phước thừa. Hưởng hết phước thừa, nghiệp
báo
của
quư
vị
sẽ
hiện tiền; chẳng chống đỡ
được! Cho đến
lúc
ấy, hối hận chẳng kịp! V́ vậy,
con
người quyết
định
chớ nên làm chuyện thiếu
lương
tâm.
Trong
lúc quá
nhiều tai nạn hiện thời, hăy ghi nhớ: Hiếu thuận cha mẹ là phước báo bậc nhất. Chỗ nào có
lỗi với cha mẹ, phải thật sự sám hối, phải tôn sư trọng đạo, phải yêu quư
sanh mạng [muôn
loài], trọn chớ nên sát sanh. Một con muỗi, một con ruồi cũng là
một sanh mạng, đừng xem nhẹ! Quư vị giết hại nó, trong tương lai nó
sẽ báo thù,
phiền phức ấy rất
to!
Độ chính ḿnh phải được thực hiện từ bộ kinh này. Tịnh nghiệp tam phước là nguyên tắc chỉ đạo tối cao,
chúng ta nhất định phải thực hiện Đệ Tử Quy,
Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, đầy đủ những điều kiện này mới có thể học Phật. Phước thứ hai là “thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”,
quư vị chính thức trở thành đệ tử Phật môn. Lại nâng
cao hơn nữa là “phát Bồ Đề
tâm, tin sâu nhân quả”. Tôi
đă giảng về “tin
sâu nhân quả” rất nhiều, chẳng phải là nhân quả thông thường, mà
nhân quả ấy chính
là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Nếu chúng ta muốn thành Phật th́ phải niệm Phật, niệm Phật nhất định thành Phật. “Đọc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn
hành giả”, chúng tôi
dùng tám chữ để giải thích
câu “khuyến tấn hành giả”: “Thân hành, ngôn giáo”,
giúp đỡ người khác, giáo hóa người khác, trước hết, chính ḿnh phải làm được rồi mới dùng
lời lẽ để dạy người khác; “giảng kinh, giáo học”,
tám chữ ấy! Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giảng kinh, dạy học; nh́n lại những vị tổ sư đại đức từ xưa, chẳng vị nào không
phải là suốt đời đều giảng kinh, dạy học! Ngẫu Ích đại sư văng sanh lúc Ngài
năm mươi mấy tuổi, quư vị thấy Ngài sáng tác mấy chục tác phẩm, trước tác vô
cùng phong phú,
mỗi ngày đều viết lách. V́
sao phải khổ sở viết lách như thế? Chẳng t́m
được truyền nhân, bèn
dùng phương pháp này để truyền pháp cho
đời sau. Người hữu duyên đời sau đọc đến, sẽ nương theo phương pháp và
lư luận do Ngài đă nói
để học tập, thành tựu, truyền lại cho người đời sau. Trong nhiều sáng
tác ngần ấy, thù thắng nhất, được Ấn Quang đại sư tán thán nhất là bộ Di
Đà Kinh
Yếu Giải. Từ lời bạt, chúng ta thấy: Thuở ấy, Ngẫu Ích đại sư viết bộ Yếu Giải nhằm giải thích đơn giản [kinh Di Đà], viết xong trong thời gian chín ngày. Phân lượng không nhiều lắm, đúng là Yếu Giải, giải thích
quá hay! Tổ Ấn Quang đă tán
thán: “Dù cổ Phật tái lai viết
một bản
chú giải
kinh Di Đà khác, cũng chẳng thể hay hơn được”.
Quư vị thấy Ấn Quang đại sư tán thán tới tột bậc. Ấn Quang đại sư là Đại Thế Chí Bồ Tát tái
lai, trong phần trước tôi
đă thưa cùng quư vị, năm mươi mốt địa vị đều là Đại Thế Chí Bồ Tát,
Ngài thuộc địa vị nào chúng
ta không biết, Ngài có phải là Pháp Thân đại sĩ hay chăng? Nếu là
Pháp Thân đại sĩ, sẽ chẳng mê khi cách ấm, chính Ngài hiểu rành rẽ. Nếu là Đại Thế Chí Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín
sẽ mê khi cách ấm. Ngài tu pháp môn Thế Chí
Bồ Tát này, khi
văng sanh thế giới Cực Lạc, sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm là
chuyện rất có
khả năng! Ngài
sanh vào cơi
Phương Tiện Hữu Dư là điều chắc chắn, từ địa vị Sơ Tín sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới đều thuộc cơi
Phương Tiện Hữu Dư. Cơi Phương Tiện Hữu Dư cũng có ba
bậc chín phẩm.
Chúng ta hiểu rơ những đạo lư này,
liễu giải chân tướng sự thật này,
sẽ chẳng mê
hoặc tí nào!
V́ vậy, phải tự độ th́ mới có thể giúp đỡ người khác. Chính ḿnh chẳng làm được, giảng cho kẻ khác
nghe, người ta đâu có
tin, chẳng có năng lực nhiếp thọ chúng sanh! Do
vậy, chính ḿnh nhất định phải làm được, phải quên
đi bản thân. Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín đă đoạn Thân Kiến, chẳng chấp trước thân này là ta, thân là cái
ta có, bèn tự nhiên toàn tâm toàn lực phục vụ hết thảy chúng sanh khổ nạn. Lục đạo toàn là chúng sanh khổ nạn, phải biết điều này, v́ sao?
Thiếu trí huệ, khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, khổ chẳng thể nói nổi! Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, cứu vớt tai nạn, dùng ǵ?
Dùng giáo học. Con người tánh vốn lành, quư vị chẳng dạy nên
họ mới mê. Mê
rồi mới tạo nghiệp. Tạo nghiệp bất thiện, chịu khổ báo
trong tam đồ. Họ đă giác ngộ, sẽ trọn chẳng tạo ác nghiệp. V́ vậy, khổ và lạc thuộc về quả báo, quả ắt có nhân, nhân là giác hay mê. Phật giúp đỡ hết thảy chúng sanh ĺa
khổ được vui, chẳng dốc sức nơi quả, mà từ nơi nhân.
Đức Phật dùng giảng kinh,
dạy học, thân hành, ngôn giáo,
giúp đỡ chúng sanh phá mê, khai ngộ. Phá mê,
bèn thoát khổ; giác ngộ, lạc bèn hiện tiền. Đức Phật dùng phương pháp này,
Bồ Tát,
tổ sư, đại đức đều dùng phương pháp này,
phương pháp này hay lắm, thật sự có hiệu quả. Quá khứ hữu hiệu, hiện tại vẫn hữu hiệu. Trong quá
khứ, chúng tôi
đă làm
thí nghiệm tại Thang Tŕ thuộc huyện Lô
Giang, tỉnh An Huy, Trung Quốc để coi xem lời dạy của cổ thánh tiên hiền có ích ǵ
cho hiện tại hay không, làm
thí nghiệm ba năm. Chúng tôi t́m một nhóm giáo viên, khuyến khích, cổ vũ họ làm Bồ Tát,
làm thánh nhân, dùng thân
hành, ngôn giáo
để mở lớp, dạy học. Đối tượng là ai?
Đối tượng là bốn vạn tám ngàn
cư dân trong tiểu trấn ấy, nam,
nữ, già, trẻ các nghề nghiệp cùng nhau học, thật sự hữu dụng! Chúng tôi vốn nghĩ phải mất hai ba năm mới có
thể thấy thành quả, không ngờ trong ba bốn tháng, thành quả lớn lao, khiến chúng tôi
cảm thấy vô cùng kinh ngạc, nhân dân dễ giáo hóa như thế. Không ai dạy, hễ được dạy, sẽ quay đầu, lương tâm tỏ lộ, chứng tỏ tánh con người vốn lành. Hai câu
đầu trong Tam Tự Kinh ngàn
vạn phần xác đáng: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Giáo dục thánh hiền là giáo dục xứng tánh, con
người bổn tánh vốn lành, hễ được kêu
gọi bèn tỉnh giác nhanh dường ấy!
Hiện
thời,
nhiều người nói tới tai
nạn, các đồng học học Phật phải biết: Phật pháp có nói tai nạn hay không? Phật pháp có nhắc tới tai
nạn, nhưng chẳng nghiêm trọng dường ấy, tận thế là chuyện chẳng thể xảy ra! Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là
một vạn hai ngàn năm. Chiếu theo cách nói
cổ xưa của Trung Quốc th́ kể từ khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ tới nay đại khái hơn ba
ngàn lẻ ba mươi năm. Quư vị thấy [pháp
vận là] một vạn hai ngàn năm, phía sau c̣n
có chín ngàn năm nữa, thời gian rất dài. Do vậy, “tận thế” là do người ngoại quốc nói, người Trung Quốc chẳng nói,
mà càng chẳng phải do Phật pháp nói. Thanh b́nh, loạn lạc, tai họa, do nguyên nhân nào gây ra? Tại Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền đă nói
rất nhiều, nói
rất khéo, có thật, chẳng giả, đó là
ǵ? Đó là
cảm ứng! Con
người có thiện tâm, thiện hạnh, cảnh duyên sẽ là
thiện cảm. Cảnh là hoàn cảnh vật chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau), cũng có thể nói là
hoàn cảnh nhân sự và vật chất chẳng có
ǵ bất thiện. Nếu con người dùng ác để cảm, hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân
sự sẽ cảm ứng ác tướng! [Cổ nhân] nêu
ra nguyên lư
này! Chúng ta muốn cứu văn xă hội, cứu văn địa cầu, phải nên làm như thế nào?
Đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Dùng phương pháp ǵ?
Phương pháp
chúng ta dùng
hiện thời là
giảng kinh, dạy học. Chúng ta dùng Internet, dùng TV để khuếch đại hiệu quả dạy học, mong mỏi các
đồng học chúng ta đối trước Internet hay TV đều phải duy tŕ.
Bản thân chúng ta thật sự phát tâm, tuân theo giáo
huấn trong kinh
điển để sốt sắng học tập, bắt đầu học từ hiếu thuận cha mẹ, tôn
sư, trọng đạo, phát tâm từ bi, yêu
quư hết thảy sanh mạng, chẳng sát sanh. Tốt nhất là có thể phát tâm ăn chay, ăn chay có lợi ích
lớn nhất đối với sức khỏe.
Tôi hai mươi sáu
tuổi học Phật, biết đối với ẩm thực, điều được Phật pháp nhấn mạnh chính
là vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm (bảo vệ sanh mạng, bảo vệ tánh
đức, bảo vệ chân
tâm), tôi bội phục tới cùng cực. Người thế gian chỉ biết vệ sinh, bảo vệ lẽ sống, nhưng đối với tánh của chính ḿnh th́
sơ sót, càng thiếu sót
trong việc bảo vệ ḷng yêu
thương của chính ḿnh. Trước khi tôi
học Phật, đi học tại Nam Kinh,
tôi ở nhà một bạn học. Gia
đ́nh người bạn học này tuy chẳng phải là đại gia đ́nh, nhưng anh ta có đông anh chị em, có năm hay sáu
anh chị em, cha, mẹ, c̣n có
bà nội. Nhưng trong gia đ́nh ấy có ba tôn giáo,
đa nguyên văn hóa:
Bà nội niệm Phật, trong nhà có
tiểu Phật đường, niệm Phật; cha anh ta theo đạo Hồi, mẹ anh ta theo Cơ Đốc Giáo. V́ vậy, các trẻ nhỏ nói
chung đều theo mẹ. Tôi
sống trong một gia đ́nh như thế, mới biết đạo Hồi chú
trọng vệ sinh trong ẩm thực, lại c̣n
coi trọng vệ tánh. Phàm những động vật nào
tánh t́nh chẳng tốt đẹp, ông ta không ăn, có
chọn lựa. Con vật nào
tánh t́nh rất ôn thuận, thiện lương ông ta mới ăn. Phật giáo c̣n tiến hơn nữa, chọn thức ăn chay, nhằm bồi dưỡng tâm từ bi. Do vậy, tôi cảm thấy phương cách ăn uống này rất viên măn, học Phật chưa đầy nửa năm tôi bèn chọn cách ăn chay. Thuở ấy, tôi
chẳng biết ǵ
về nhân quả, mà v́
tin tưởng cách ăn ấy là vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm, cách ấy rất viên măn. Đúng là lành mạnh! Tôi
ăn chay tới năm nay là
năm mươi chín năm, sang năm vừa đúng một giáp,
thân thể ngày
càng khỏe mạnh, chẳng yếu hơn ai! Điều này chứng tỏ ăn chay có lợi, ăn chay quả thật là
khỏe mạnh trường thọ. Nếu quư
vị yêu quư
sinh mạng, cớ sao chẳng ăn chay? Tôi làm
chứng cho mọi người ăn chay là
tốt lành! Con người phải giữ tấm ḷng tốt, nói lời tốt, làm
chuyện tốt, làm
người tốt, tiêu chuẩn của sự tốt lành
là Đệ Tử Quy của Nho gia, Cảm Ứng Thiên của Đạo gia, và Thập Thiện Nghiệp Đạo của Phật gia.
Gần đây nhất, tôi
cũng nghe đồng học nói, trong ngoài
nước quả thật có
những người dùng
danh nghĩa Tịnh Không để bịa đặt, gây chuyện, làm những chuyện phi pháp,
tôi mong các
đồng tu phải có
tâm cảnh giác. Cả đời tôi, chuyện ǵ cũng chẳng tham dự, tôi thường bảo mọi người cả đời tôi
đều là
bị động, trước nay chưa hề tự làm
chuyện ǵ, chưa hề! Toàn
là bị động. Người khác tới t́m tôi,
tôi cảm thấy chuyện ấy đối với xă hội, đối với đại chúng có
lợi th́
tôi cũng vui vẻ tham gia. Chủ động làm chuyện tốt, tôi chưa hề làm, v́ sao?
Làm chuyện tốt phải có phước báo, tôi
không có phước báo! Tôi
đă nói
với quư vị, tôi suốt đời là một kẻ cô
quạnh, mọi người thường ở chung với tôi
đều hiểu rơ chuyện này. Người làm chuyện này nọ phải có
phước báo, dưới tay người ấy có rất nhiều nhân
viên lo liệu công việc, và cũng có tài lực th́ mới có
thể làm được việc! Hai thứ này tôi
đều thiếu, tiền cũng không có,
mà người làm việc cũng thiếu luôn! Trơ trọi một ḿnh giảng kinh,
dạy học. Trừ chuyện này ra, bất cứ chuyện ǵ cũng chẳng liên
can đến tôi.
Tôi đă nghĩ tới rất nhiều chuyện, chẳng hạn như viện Dưỡng Lăo,
giáo dục văn hóa truyền thống, thôn
Di Đà, tôi
nghĩ rất nhiều, nhưng tôi có
mong làm hay chăng? Tôi
không mong làm, v́
sao không mong làm? Không có
người, chẳng có tiền, làm bằng cách nào?
Chỉ là nói
suông mà thôi!
Nhưng tôi nói
những chuyện ấy, nói
ra, người nói
vô tâm, người nghe hữu ư, có
rất nhiều người sau khi nghe xong, thật sự muốn làm. Được! Tôi tán
thành, chỉ như vậy mà thôi!
Người ta nghĩ sao? Đó là do
pháp sư Tịnh Không làm,
sai rồi, tôi
là người nói vô
tâm, người nghe hữu ư.
Người nghe thích làm
[chuyện đó] đến báo
cho tôi biết, c̣n cầm những bản kế hoạch cho tôi xem. Tôi gật đầu, được, chuyện tốt có lợi ích
lớn cho xă hội và
quốc gia th́ phải nên
làm, chẳng phải do tôi làm.
Chuyện ở Thang Tŕ nói
thật ra do các bằng hữu thuộc Liên Hiệp Quốc ép làm.
Thế giới động loạn, quá nhiều vấn đề, làm thế nào để hóa giải xung đột? Làm thế nào
để khôi
phục xă hội an định, thế giới ḥa b́nh? Chúng tôi
báo cáo những giáo huấn của cổ thánh tiên
hiền Trung Quốc trong đại hội Liên Hiệp Quốc, họ nghe xong, rất vui thích, sau đó, t́m tôi
nói chuyện phiếm: “Pháp
sư Tịnh Không, ông nói tuyệt lắm, rất hay, chúng
tôi đều ưa thích, nhưng đó là chuyện lư tưởng, chẳng thể làm được!” Chuyện này
khiến tôi khó
xử, họ chẳng có
ḷng tin, phải thế nào
th́ những người ngoại quốc ấy mới có
ḷng tin? Nhất định phải thực hiện, quư vị làm ra cho người ta
thấy, họ sẽ bội phục, chẳng nói
ra nói vào
nữa! Tôi bị ép buộc như vậy, quư vị thấy tôi
không có ai,
chỉ kiếm được hai người, một là cô
giáo Dương Thục Phân, hai là thầy giáo Thái
Lễ Húc. Các
vị phụ lăo,
bằng hữu ở quê
nhà giúp đỡ, tôi
nói được rồi, bọn họ giúp sức, hai người các vị đi làm! Quư vị thấy hai người ấy, chiêu mộ một nhóm
giáo viên gồm ba mươi bảy người. Chúng ta có
một cộng đồng lư tưởng như thế, yêu cầu các giáo
viên học theo thánh
hiền, học theo Phật, Bồ Tát, tự ḿnh
nêu gương tốt cho người khác thấy. Những giáo
viên này rất tuyệt diệu, tôi đảnh lễ họ, đúng là
khó có, nêu
tấm gương tốt nhất, cảm động người nơi ấy, trong ba bốn tháng đạt được
hiệu quả tốt đẹp dường ấy!
Do vậy, tháng Mười năm 2006, tôi tham gia hội nghị do tổ chức Giáo Dục
Văn Hóa Khoa Học Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) tổ chức, do tổng bộ Ba Lê
triệu tập chủ tŕ, tôi
c̣n được coi là một trong những người tổ chức. Tôi
đem thí
nghiệm tại Thang Tŕ báo
cáo trước đại hội trong tám
tiếng đồng hồ. Bọn họ nghe xong, kinh ngạc, đại diện của một trăm chín mươi hai quốc gia đều muốn tới thăm và
khảo sát Thang Tŕ, thật chẳng dễ dàng, làm
thành công! Nay mọi người tin tưởng, những thứ của cổ nhân Trung Quốc vẫn c̣n hữu hiệu. V́ vậy, ba năm hoạt động của chúng ta ở trong nước cũng tạo ra ảnh hưởng rất lớn. Nay quốc gia chính thức xếp Đệ Tử Quy khóa tŕnh
trong nhà trường, chuyện tốt đẹp mà! Nhưng muốn an định xă
hội,
muốn
cứu vớt thế giới này, vẫn phải dốc sức thúc đẩy
toàn
dân học tập, nam,
nữ,
già,
trẻ,
các
ngành
nghề
trên
cả
nước
cùng
nhau
học.
Tôi
nghĩ
chỉ
cần
có
năm
mươi,
sáu mươi giáo
viên,
lợi
dụng
ǵ
để dạy? Lợi dụng đài
truyền
h́nh
quốc
gia,
lợi
dụng
mạng
Internet,
mỗi ngày hai mươi bốn
giờ
giảng
chẳng
gián
đoạn. Giảng suốt một năm, xă hội Trung
Quốc
sẽ an định.
Giảng
ba năm, thế giới này sẽ thái b́nh, chuyện
ǵ
cũng
đều chẳng có. Đó
là ǵ? Người
có
đại phước
báo
sẽ làm, tôi chỉ nói, tôi chẳng
thể
làm.
Tôi
chẳng
có
một
ai
hết.
Hiện
thời, Thang Tŕ đă giải tán, Thái Lễ Húc
cũng đi rồi, cô Dương cũng đi, hiện thời chỉ có ḿnh
tôi trơ trọi. Do vậy, nếu quư
vị hỏi tôi
có phương pháp ǵ
hay không? Tôi
biết đôi chút, có
thể đưa ra một chút
kiến nghị, quả thật là chẳng năng lực để làm. Hiện thời, tuổi cũng đă cao, chỉ mong giảng kỹ càng kinh Hoa
Nghiêm và kinh Vô
Lượng Thọ một lượt. Sau khi giảng viên măn hai
bộ kinh này,
nếu tôi c̣n
có thọ mạng, sẽ giảng kinh Di Đà một lần nữa, giảng cặn kẽ một lượt. Những điều khác
không phải là chuyện của tôi. Bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp cũng không phải là chuyện của tôi, tôi
chẳng có tinh lực này.
Nếu tôi
năm mươi, sáu
mươi tuổi th́
c̣n có thể, [nay đă] tám mươi bốn tuổi rồi, chẳng thể làm
chuyện này nữa! V́
vậy, trao cho tôi điều kiện tốt đẹp nào,
tôi đều cự tuyệt, đều chẳng cần đến. V́
vậy, các đồng học cũng chẳng cần phải tặng tiền cho tôi. Tặng tiền cho tôi, đương nhiên tôi
thay quư vị làm chuyện tốt, thay quư vị in kinh, thấy những nơi làm công
tác giáo dục cần tiền, thực hiện giáo dục truyền thống, tôi sẽ thay quư vị chuyển tiền sang những nơi đó. Bản thân tôi
thứ ǵ cũng chẳng cần nữa. Tôi
thưa cùng mọi người, người đă trên
tám mươi tuổi, hằng ngày
mong văng sanh, chuyện này
là thật , chẳng giả. Tôi
thường nói, đều là lời thật. Thọ mạng của tôi
tới ngày nào?
Cho tới hôm nay, ngày hôm nay sẽ chết, c̣n có ǵ không bỏ xuống được? C̣n có chuyện ǵ
để có thể làm? Chẳng có
chuyện ǵ hết, chỉ là niệm Phật, cầu A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Mỗi ngày đều là ngày cuối cùng của tôi.
V́ vậy, điều ǵ
tôi cũng chẳng nghĩ tới, sống rất thoải mái,
sống tự tại lắm. Ngoại trừ giảng kinh là đọc kinh, vui thích chuyện này chẳng chán!
Do vậy, kết luận cuối cùng: “Thị tri lợi tế chúng sanh, thử kinh vi tối.
Tŕ danh chi pháp, ám hợp
đạo
diệu,
tối dị hành cố” (do
vậy, kinh này
lợi lạc chúng
sanh lớn nhất; pháp tŕ
danh thầm hợp đạo mầu, dễ hành nhất). Hoàng lăo cư sĩ nói rất hay, quá
khó có, chúng ta chẳng thể không bội phục. Đoạn cuối cùng: “Đại thánh thùy từ,
đặc lưu thử kinh” (đức đại thánh rủ ḷng Từ, đặc biệt lưu lại kinh này), “đại thánh” là
Thích Ca Mâu Ni Phật, Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là một vạn hai ngàn năm, kinh diệt cuối cùng là
kinh này.
“Kinh vân” (kinh nói), tức là
kinh này [có
nói], “độc lưu thử
kinh” (riêng lưu lại kinh này). Trong phẩm bốn mươi lăm, có đoạn như sau: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận.
Ngă
dĩ từ bi ai mẫn, đặc
lưu thử
kinh, chỉ trụ
bách tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị
tư kinh giả, tùy ư sở nguyện, giai khả
đắc độ” (trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết. Ta do ḷng
từ bi thương xót, riêng
lưu lại kinh này tồn tại trong thế gian một trăm năm. Nếu có chúng
sanh gặp được kinh này, tùy
ḷng mong muốn đều được độ thoát). “Đương lai” là tương lai, một trăm năm cuối cùng trong thời Mạt Pháp, kinh Phật hoàn toàn diệt sạch trong thế gian này. V́ sao bị diệt? Thưa quư
vị, chúng sanh thiếu phước, lắm kẻ tạo ác,
chẳng có người tu phước. Nếu c̣n
có người tu phước, kinh đạo vẫn c̣n
thấy trên thế gian. V́ sao đời đời kiếp kiếp con người tạo ác? Chúng ta hăy
nh́n lướt qua lịch sử, người thời nay tạo ác quả thật nhiều hơn cổ nhân.
Lứa tuổi chúng
tôi đă đích thân thấy điều này, Trung Quốc nói ba mươi năm là một thế hệ, tôi gần như đă thấy ba thế hệ. Ba thế hệ ấy như thế nào? Thế hệ sau chẳng bằng thế hệ trước! Từ nay về sau,
nếu quư vị chú ư một chút, lắng ḷng suy nghĩ, vào
ba mươi năm sau xă
hội này có
t́nh h́nh ra sao? Quư
vị có dám
nghĩ tới hay chăng? Quư
vị thấy ǵ?
Quư vị thấy những kẻ trẻ tuổi hiện thời, từ mười lăm tuổi tới hai mươi tuổi, chúng
nó nghĩ ǵ,
nói những ǵ,
làm những ǵ?
V́ sao trở thành t́nh
trạng như thế? Chúng ta đă bỏ sót giáo
dục của cổ thánh tiên hiền, những đứa trẻ ấy hiện thời được giáo dục bởi những ǵ? TV, Internet!
Tôi ở ngoại quốc lâu
ngày, các trường học tại ngoại quốc, học tṛ
lớp Một đă sử dụng computer, nối vào
Internet. Trên
Internet có
rất nhiều thứ, [chúng nó]
xem vui sướng chẳng biết mệt. Khi ngủ cũng để [laptop] trong mền để xem, cha mẹ c̣n rất đắc ư,
con ta rất siêng năng! Chúng nó
coi ǵ vậy? Coi bạo lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối. Chúng nó
tiếp nhận những thứ ấy. Do đó, chẳng biết hiếu dưỡng phụ mẫu, chẳng biết yêu thương anh em. Hai mươi năm sau, chúng nó
là thành phần trung kiên
trong xă hội. Nếu bọn chúng làm
lănh tụ trên
chánh trường, c̣n có thể làm những ǵ?
Càng nghĩ càng đáng sợ. Người trong thế hệ này c̣n
có thể khống chế bản thân, chẳng phát động chiến tranh hạch nhân, có dám nói thế hệ kế tiếp [sẽ
chẳng phát động] hay không? Chẳng dám
nói! Sợ rằng hiện thời, những đứa trẻ chơi game điện tử, chơi tṛ
giết người đă thành thói
quen, đến lúc đó, nếu nó
làm Tổng Thống, tới khi
nắm quyền, sẽ có thể lấy vũ khí hạch nhân ra chơi. [Chúng
nó nghĩ] đâu phải là chiến tranh giết người, đó là tṛ
chơi; nhưng tṛ chơi ấy sẽ khiến thế giới bị hủy diệt. Hủy diệt thế giới cũng là tṛ
chơi, làm thế nào bây giờ? Tôi cũng gặp một số vị lănh đạo quốc gia, tôi kiến nghị với bọn họ hăy hủy sạch vũ khí
hạch nhân, tiêu
hủy vũ khí
hóa học; trong tương lai, bọn chúng sẽ tưởng là
tṛ chơi, chẳng đến nỗi có
những món vũ khí mang tính hủy diệt như vậy. Điều này
có lợi cho xă hội và thế giới, chẳng cần phải duy tŕ
[những món vũ khí ấy]. Nếu thế giới thật sự hiểu nhân quả báo ứng, chúng ta biết vũ lực chưa thể giải quyết vấn đề, chỉ có dùng phương pháp ḥa b́nh thật sự mới ḥng
giải quyết vấn đề, dùng vũ lực giải quyết vấn đề sẽ tạo thành vô lượng vô biên tội nghiệp. Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 8 hết
[1] Chùa Quang Hiếu vốn có tên là Chế Chỉ, vốn là nền trường học cũ của Ngu Phiên, được khai sơn vào khoảng năm 233. Chùa trở thành đạo tràng hoằng pháp của pháp sư Ấn Tông trong niên hiệu Nghi Phụng đời Đường Cao Tông. Chùa đổi tên thành Báo Ân Quảng Hiếu Tự vào năm Thiệu Hưng 20 (1150) đời Cao Tông nhà Nam Tống, về sau rút gọn tên gọi và đổi Quảng thành Quang, nên chùa có tên là Quang Hiếu Tự như hiện thời. Chùa Quang Hiếu cũng là nơi Tể Tướng Pḥng Dung giúp pháp sư Bát Lạt Mật Đế nhuận sắc bản dịch kinh Lăng Nghiêm khi ông bị Vơ Tắc Thiên đày xuống Khâm Châu (nay là huyện Khâm Châu tỉnh Quảng Đông).
[2] Hắc Cốc Thượng Nhân chính là tôn xưng của ngài Pháp Nhiên, sáng tổ Tịnh Độ Tông (Jōdo Shū) Nhật Bản. Ngài Pháp Nhiên (Honen, 1133-1212) sinh ở huyện Mỹ Tác Quốc (Mimasaka), pháp húy Nguyên Không (Genkū). Sư c̣n được gọi là Cát Thủy Thượng Nhân hoặc Viên Quang đại sư. Sau khi thân phụ mất, năm chín tuổi, Sư xuất gia theo tông Thiên Đài (Tendai, tức Thiên Thai Tông Nhật Bản), sau đó, tu tại tổng bản sơn Tỷ Duệ (Hiei). Đến năm 24 tuổi, vẫn chưa cảm thấy thỏa măn với giáo nghĩa Thiên Đài, Sư rời Tỷ Duệ đến tham học tại Đông Đại Tự và Hưng Phước Tự, nhưng vẫn chưa cảm thấy đă t́m được con đường giải thoát đúng đắn cho bản thân. Trở về Tỷ Duệ, vùi ḿnh trong Tàng Kinh Các, cuối cùng Sư đă đọc Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ của ngài Thiện Đạo, giải ngộ, chân thành đề xướng tŕ danh niệm Phật. Rời Tỷ Duệ, ḥa ḿnh vào tầng lớp b́nh dân, Sư giảng dạy giáo nghĩa Tịnh Độ, thu hút các tín đồ, kể cả các quan to trong triều. Điều này gây nên sự đố kỵ và lo ngại của giới tăng lữ thuộc tông Thiên Đài v́ sợ mất ảnh hưởng quyền lực đối với triều đ́nh. Các tăng sĩ như Minh Huệ (Myōe) và Trinh Khánh (Jōkei) đă công khai chỉ trích Pháp Nhiên là tà giáo. Đă thế, những tín đồ, môn đệ của ngài Pháp Nhiên trong nhiệt t́nh truyền giáo đă hiểu lệch lạc khái niệm Tha Lực nên không tuân thủ giới luật, kịch liệt chỉ trích những tông phái khác bằng luận điệu khiên cưỡng, bôi nhọ, dẫn đến phản ứng mạnh của tông Thiên Đài. Cuối cùng dưới sức ép của các tăng lữ chùa Hưng Phước, Thiên Hoàng Hậu Điểu Vũ (Go-Toba) đă hạ lệnh nghiêm cấm niệm Phật, bắt Pháp Nhiên và các đệ tử đi lưu đày. Măi đến năm 1211, lệnh cấm mới được băi bỏ và Pháp Nhiên được trở về Kinh Đô (Kyoto), nhưng Sư tịch vào năm sau. Một đệ tử của Sư là Thân Loan (Shinran) đă thành lập một tông phái Tịnh Độ mới là Tịnh Độ Chân Tông (Jōdo Shinshū).