Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 8

Chủ giảng: Lăo pháp Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong Huệ Trang

 

Tập 15

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải trang th mười bốn, hàng th ba t dưới đếm lên. Chúng ta xem t hàng th ba, xem t câu cuối cùng trong trang trước.

      Thị cố Di Đà Yếu Giải vân: Thử chi pháp môn, toàn tại liễu Tha tức Tự, nhược húy ngôn Tha Phật, tắc thị Tha Kiến vị vong. Nhược thiên trọng Tự Phật, khước thành Ngă Kiến điên đảo (V́ thế, sách Di Đà Yếu Giải viết:Pháp môn này chú trọng liễu giải Tha chính là Tự. Nếu kiêng không nói đến Tha Phật, tức là Tha Kiến chưa mất. Nếu khăng khăng coi trọng Tự Phật, s thành Ngă Kiến điên đảo). Mấy câu này trong sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại ư nghĩa rất sâu. Sở dĩ phàm phu rất khó thành Phật, mấu chốt là ch này: Nói chung là do chẳng buông phân biệt, chấp trước xuống được! đây nói v phân biệt và chấp trước. Bất luận tu pháp môn nào, do tập khí t lượng kiếp đến nay, chúng ta rất dễ phạm sai lầm. Tổ sư đă giảng v pháp môn này rất hay: Toàn tại liễu Tha tức Tự, liễu () hiểu , biết Tự Tha bất nhị, Tha A Di Đà Phật, Tự là chính ḿnh. A Di Đà Phật chính ḿnh vốn cùng một Thể, tự tánh Di Đà. A Di Đà Phật do đâu mà có? Do t tánh biến. Ta do đâu mà có? Cũng do tự tánh biến; ta A Di Đà Phật cùng một t tánh. Đạo này rất sâu, thật sự khế nhập cảnh giới này, khẳng định chuyện này thật, đó gọi là chứng đắc, trong Tông Môn nói:Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Tha Phật Tự Phật một, mười phương tam thế hết thảy chư Phật đều do tự tánh này biến ra, hết thảy chúng sanh trong không pháp giới cũng do tự tánh này biến ra. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc đă giảng thấu triệt chuyện này, giảng hết sức ràng! Quư vị hiểu chư Phật Như Lai đông đảo chúng sanh quan hệ ǵ với ta, hiểu rơ ràng. Nói theo mặt quan h th́ là luân lư. Do vậy, tại Trung Quốc, luân rất được coi trọng. T xưa tới nay, luôn nhấn mạnh luân lư; luân nói tới mối quan hệ giữa con người với nhau. Trong Phật pháp, luân được giảng viên măn nhất. Không ch giảng v quan hệ giữa con người với nhau, mà quan h giữa con người tất c hết thảy động vật, quan h với tất c hết thảy cây cối hoa cỏ, quan hệ với núi, sông, đại địa, mối quan hệ giữa các chiều không gian khác biệt trong không và các sinh vật, [những mối quan h ấy] đều được [Phật pháp] nêu ra toàn bộ. Có th nói: Đại Thừa Phật pháp đă giảng luân đến rốt ráo viên măn. Đặc biệt Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, chúng ta thấy [các phẩm] Thế Giới Thành Tựu và Hoa Tạng Thế Giới đều giảng về luân lư. Làm thế nào để x lư thật tốt đẹp những mối quan hệ ấy, đó là đức hạnh. Trong tự tánh vốn trí huệ đức tướng, xử lư đều chẳng ĺa tự tánh, từ Tánh Đức lưu lộ. Tổ tiên Trung Quốc đă thật sự khai quật được cốt lơi của Tánh Đức, cốt lơi ấy Hiếu. vậy, đối với văn hóa Trung Hoa, nói tới điểm đặc sắc của Trung Quốc, dùng một ch Hiếu để nói! Trong Phật pháp, cũng một ch Hiếu này! thế, Phật pháp truyền đến Trung Quốc, bèn rất nhanh chóng dung hợp với văn hóa Trung Quốc thành một Thể, căn bản của chúng là một, chẳng hai. Quư vị thấy phần Tịnh Nghiệp Tam Phước trong kinh Quán Lượng Thọ Phật của Tịnh Tông, câu đầu tiên là hiếu dưỡng phụ mẫu, câu th hai là phụng sự trưởng. Văn hóa truyền thống của Trung Quốc cũng lấy điều này làm sở, hiếu thân, tôn (hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy). c tôn giáo và những nền văn hóa khác [quan niệm này] hay không? Có, nói thật ra th́ cốt lơi một. Do vậy, các tôn giáo trên thế gian th đoàn kết, cùng một cốt lơi mà! Chẳng có ǵ không nói tới hiếu đạo. Những tôn giáo và văn hóa khác chẳng giảng ràng như Phật Nho, họ nói đến ái (ḷng yêu thương): Chúa yêu thương người đời, Thượng Đế yêu thương người đời; h nói đến nhân từ. Trên thực tế, đều cùng một ư nghĩa, một cốt lơi.

      Có thể thật sự giác ngộ chẳng dễ dàng! Sau khi giác ngộ, những tri kiến ấy chẳng c̣n, s không c̣n nói Tha Phật hay T Phật, chẳng c̣n ư niệmy nữa! Có ư niệmy chẳng phải đối lập hay sao? Tự, s Tha. vậy, Ngẫu Ích đại nói: Nếu kỵ húy Tha Phật, chưa quên Tha Kiến. Nếu thiên trọng T Phật, đó Ngă Kiến điên đảo, chưa quên Ngă Kiến. Tự Tha đối lập s biến thành hai pháp, chẳng phải Phật pháp. Giống như Huệ Năng đại chùa Quang Hiếu, [chùa này hiện thời] là Quang Hiếu Tự[1], gặp gỡ pháp Ấn Tông lần đầu tiên, pháp n Tông thỉnh giáo Tổ:Khi Ngài Hoàng Mai, Ngũ Tổ lăo nhân gia giảng Thiền Định và giải thoát như thế nào?Huệ Năng đại giải thích, giảng giải Thiền Định và giải thoát, giải thoát nghĩa Niết Bàn, Huệ Năng đại nói: Thiền Định giải thoát hai pháp, hai pháp chẳng phải Phật pháp, Phật pháp pháp bất nhị. Nên giải thích câu nói này của đại như thế nào? Chúng ta thấu hiểu hay chăng? Pháp Ấn Tông c̣n thấy hai pháp, tức là vẫn c̣n phân biệt, chấp trước; Huệ Năng đại đă dung hội c hai thành một Thể. Không chỉ Thiền Định và giải thoát một, không hai, hết thảy các pháp đều một. Pháp thế gian Phật pháp cũng một. Giác ngộ th́ gọi là xuất thế pháp, hay Phật pháp; chưa giác ng th́ gọi là thế gian pháp. Đúng một, không hai. Sau khi giác ngộ, chẳng t́m được hai; vậy, nhập Bất Nhị môn, sao? Phân biệt, chấp trước, ngay c khởi tâm động niệm đều không có, lấy đâu ra hai pháp? Mấy câu này giảng v pháp môn Bất Nhị; nói theo cách bây giờ, đây triết học cao cấp trong kinh Phật. Chúng ta nghe xong thể hiểu th́nghe hiểu” chính là lănh hội lời giảng của cổ đức. Nghe không hiểu là chưa lănh hội. Lănh hội được th́ tốt lắm, chưa lănh hội cũng chẳng sao, c thật thà niệm Phật được rồi. Vâng lời, thật sự thật thà vâng lời, quư vị thật sự tu, chắc chắn thể thành tựu, đấy quyết. Chúng ta học đoạn này tới đây.

      Chúng ta xem đoạn kế tiếp, tức đoạn th tư: Đinh, ám hợp diệu đạo, xảo nhập sanh (th tư, thầm hợp đạo mầu, khéo nhập vô sanh). Đây nói pháp môn T Danh Niệm Phật này tương ứng với minh tâm kiến tánh, tuy c̣n chưa đạt đến tŕnh độ ấy, nhưng cùng một phương hướng, một mục tiêu, chắc chắn tốt đẹp, đó là ám hợp diệu đạo. Xảo nhập sanh: Vô sanh kiến tánh, thật sự thấy hết thảy các pháp chẳng sanh diệt, sanh diệt chẳng hai. Pháp môn này phương tiện thiện xảo khiến cho chúng ta cũng thể khế nhập [vô sanh]. Xin xem kinh văn trong trang mười lăm, hàng th nhất. Phù niệm dữ sanh, viễn phi phàm phu chi sở năng (vô niệm và vô sanh vượt xa ngoài kh năng của phàm phu). niệm sanh, chúng ta phải thấu hiểu ư nghĩa đây: Có sanh th́ s có niệm! Chúng ta chưa phải thuộc cảnh giới này, cũng chưa nhập cảnh giới này, nhưng người đă học Hoàn Nguyên Quán sẽ hiểu trụ xuất hiện như thế nào? Vạn vật xuất hiện như thế nào? Do ư niệm có, ư niệm vừa khởi, chúng (vạn vật và vũ trụ) bèn hiện tiền; ư niệm chẳng có, ngay lập tức, chúng cũng chẳng c̣n! Di Lặc Bồ Tát nói ư niệm sanh diệt cùng nhanh, trong một giây bao nhiêu niệm? một ngàn hai trăm tám mươi triệu, nhiều niệm dường ấy. Ngài nói: Do niệm niệm tiếp nối, nên dường như sanh; nếu ư niệmcó một niệmnày đă đoạn, cảnh giới sanh sẽ hiện tiền. sanh ǵ? sanh Thường Tịch Quang, trong ấy chẳng hiện tượng sanh diệt, chẳng sanh, chẳng diệt. Huệ Năng đại đă thấy, q vị thấy trong bài báo cáo gồm năm câu của Ngài, câu th hai là: kỳ tự tánh, bổn sanh diệt (nào ng t tánh vốn chẳng sanh diệt). Ngài đă thấy, chứng đắc, Ngũ Tổ mới truyền y bát cho Ngài, chẳng truyền cho Thần Tú, Thần sanh diệt: Thân thị Bồ Đề thụ, tâm như minh kính đài (thân như cội Bồ Đề, tâm như đài gương sáng), sanh, diệt, c̣n người ta (Huệ Năng) thật sự thấy sanh. vậy, cảnh giới không giống nhau.

      Cảnh giới ấy chẳng phải cảnh giới phàm phu, cảnh giới của ai? Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói:Viên Giáo Bát Địa Bồ Tát, ly nhất thiết tâm ư thức phân biệt, th danh chân đắc Sanh Pháp Nhẫn (Bậc Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, ĺa hết thảy tâm ư thức, phân biệt, mới thật sự được gọi đắc Sanh Pháp Nhẫn). sanh Sanh Pháp Nhẫn, Sanh Pháp Nhẫn ǵ? Nhẫn tán thành. Q vị đă thấy, cũng chẳng chút hoài nghi nào, quư vị chứng nhận điều ấy. Do vậy, nhẫn () có nghĩa là tán thành, khẳng định. Đức Phật giảng pháp Vô Sanh hết thảy các pháp chẳng sanh, hết thảy các pháp chẳng diệt, người y tiếp nhận, khẳng định. Chúng ta nghe câu này, nhất định s nói:Thưa Thích Ca Mâu Ni Phật! Con thấy đời người sanh, lăo, bệnh, tử, thấy hoa nở, hoa tàn, l nào chẳng sanh diệt?Chúng ta không hiểu! Thật vậy! Thật sự chẳng sanh diệt! Đối với kiến thức thông thường này, muốn hơi hiểu rơ một chút, hăy đọc bộ Hoàn Nguyên Quán, trong ấy đă giảng rất ràng, chúng ta chưa thể chứng thực, nhưng Bát Địa Bồ Tát đă thấy. Đọc kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Trụ Bồ Tát thuộc Viên Giáo phá minh, chứng Pháp Thân, Ngài đă thấy niệm, sanh, thoát ly mười pháp giới. Thưa quư vị, mười pháp giới sanh, diệt. Mười pháp giới do đâu mà có? Do A Lại Da biến hiện. Những điều các khoa học gia hiện thời nói rất giống với ba tế tướng của A Lại Da. Các khoa học gia nói: Trong trụ, ch ba thứ, trừ ba thứ ấy ra, thứ ǵ cũng đều không có. Ba thứ ấy ǵ? Thứ nhất năng lượng, thứ hai vật chất, thứ ba là thông tin. Đức Phật giảng ba tế tướng của A Lại Da, thứ nhất Nghiệp Tướng, [thứ hai là] Chuyển Tướng, [thứ ba là] Cảnh Giới Tướng. Nghiệp Tướng năng lượng, Chuyển Tướng thông tin, Cảnh Giới Tướng vật chất. Chúng ta cũng chẳng th không bội phục các nhà khoa học, h cũng phát hiện, nhưng chẳng nói rơ ràng như đức Phật. Đức Phật nói ba hiện tượng này do đâu có? H (các nhà khoa học) không biết ba hiện tượng này lại biến hiện ra trụ, biến hiện ra vạn vật, biến hiện ra con người chúng ta như thế nào, các khoa học gia chẳng nói được! Khoa học cận đại có th phát hiện ba th này, há phải d dàng!

      Trụ Bồ Tát buông khởi tâm động niệm xuống, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đương nhiên chẳng phân biệt, chấp trước. Sau khi khởi tâm động niệm mới phân biệt, sau khi phân biệt mới chấp trước. Những thứ này thảy đều buông xuống, s sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chưa đến được Thường Tịch Quang, thể nói chứng Thường Tịch Quang, nhưng chưa khế nhập. sao? C̣n tập khí minh chưa đoạn. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại tập khí minh dày hay mỏng khác nhau; [nếu] toàn bộ tập khí đă đoạn hết, cơi Thật Báo Trang Nghiêm cũng chẳng c̣n. H đến nơi đâu? Tới cơi Thường Tịch Quang. Trong Thường Tịch Quang, không hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần cũng chẳng , đúng cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, quư vị không cách nào tưởng tượng,cũng chẳng diễn t được. Nó thật sự tồn tại, vĩnh hằng tồn tại, chẳng sanh, chẳng diệt. khởi tác dụng hay không? Khởi tác dụng! Chúng sanh cảm, nó bèn ứng; sự cảm ứng đạo giao này cũng rất khó tưởng tượng. Thuở trẻ, chúng tôi học Phật pháp, thầy cũng chẳng giảng ràng chuyện này, đối với chuyện này, chúng tôi luôn hoài nghi. Nỗi hoài nghi ấy chẳng có vấn đề, trong Phật pháp gọi [nỗi hoài nghi ấy] là nghi t́nh, thường nghi, chưa th đoạn. Huân tập kinh giáo Đại Thừa một thời gian dài, tôi mới dần dần lănh ngộ. S lănh ngy ngộ, giải ngộ, chưa phải chứng ngộ. Giải ngộ, chẳng hoài nghi nữa! Có lư, đạo cũng đă hiểu. đương nhiên Sự, có S đương nhiên Lư. T S mà hiểu rơ Lư, từ cũng liễu giải Sự. sao chưa thể chứng đắc? Chưa buông khởi tâm động niệm xuống được! Phân biệt, chấp trước nhẹ hơn người b́nh thường, v́ sao người b́nh thường ngay c giải ng cũng gặp khó khăn dường ấy? Do phân biệt, chấp trước quá nặng, điều này chướng ngại ngộ môn của quư vị, chưa th chứng ngộ. Quư vị thấy giải ng c̣n b chướng ngại, huống hồ chứng ngộ!

      Tu hành Phật pháp chẳng có chi khác, buông xuống, triệt để buông xuống! Bố Đại ḥa thượng đă biểu th pháp đến nơi đến chốn. [Ngài sống] vào đời Tống, cùng một thời với Nhạc Phi, B Đại ḥa thượng Di Lặc Bồ Tát, người Hoa gọi Ngài là Hoan H Phật. Đây là một nhân vật truyền kỳ, nhưng trong Cao Tăng Truyện có truyện kư của Ngài. Trong truyện kư, chẳng ghi tên h của Ngài v́ không ai biết, [Ngài là] người xứ nào cũng không biết. Ngài xuất hiện tại Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Nơi Ngài tr là chùa Tuyết Đậu, ngôi chùa này hiện thời là đạo tràng của Di Lặc Bồ Tát, Ngài trụ tại nơi đó. Mập mạp, luôn tươi cười, hằng ngày ra ngoài hóa duyên, bất luận người ta cho th ǵ đều nhét vào túi vải. một lần, trên đường, gặp mấy người thưa hỏi lăo nhân gia:Phật pháp là ǵ?Ngài bỏ cái túi vải xuống đất, buông thơng hai tay, thể hiện tư thế như vậy, chẳng nói một câu nào! Người ta nh́n ra:Đó là buông xuống, sau khi buông xuống sẽ làm như thế nào?Ngài khoác túi vải lên lưng b đi, chẳng đoái hoài đến ai. Ngài đă thật sự trả lời, thật sự giảng ng. Phật pháp là ǵ? Buông xuống Phật pháp. Quư vị thấy: Trong giáo pháp Đại Thừa, buông chấp trước xuống bèn chứng A La Hán, buông phân biệt xuống Bồ Tát; buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị bèn thành Phật. T đầu đến cuối đều dạy quư vị buông xuống, buông xuống tới mức chẳng c̣n ǵ hết. Ngay c s buông xuống ấy cũng buông luôn, quư vị sẽ thành Phật.

      Sau khi thành Phật th́ sao? Nâng lên! Buông xuống được, s nâng lên được! Nâng lên là ǵ vậy?Nâng lênlà phổ độ chúng sanh. Nói theo t ng hiện thời, độ giúp đỡ, giúp sức, góp tay. Chúng sanh khổ nạn, quư vị giúp họ. Chúng sanh đang hoặc, chưa giác ngộ, quư vị giúp họ giác ngộ. Dùng phương pháp ǵ? Giảng kinh, giáo học. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật dùng phương pháp này, chúng ta đều thấy thân hành, ngôn giáo: những ǵ Ngài đă nói, Ngài đều thật sự làm được. Thân hành, ngôn giáo, giảng kinh, thuyết pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời làm chuyện như vậy. Ba mươi tuổi khai ngộ, khai ngộ rồi bắt đầu dạy học, bảy mươi chín tuổi viên tịch, giảng kinh, dạy học suốt bốn mươi chín năm, những điều Ngài đă nói Ngài đều làm được toàn bộ, chẳng có điều nào không làm! Ngài dạy chúng ta như dạy tr v ḷng, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Ngài làm được, chẳng sát sanh, không trộm cắp, chẳng dâm, chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói thêu dệt, chẳng ác khẩu, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, thật sự làm được, làm thanh tịnh. Tam Quy là buông xuốngmê, , nhiễm, nương theogiác, chánh, tịnh, đó Tam Quy, Ngài làm được. N Giới Ngài làm được. Kinh giáo dạy chúng ta buông chấp trước xuống, Ngài làm được. Buông phân biệt xuống, Ngài cũng làm được. Buông khởi tâm động niệm xuống, Ngài làm được. Sau đấy, bảo quư vị: Ch cần quư vị thật sự chịu buông xuống, trong tự tánh có sẵn lượng trí huệ; lượng công đức và lượng tướng hảo thảy đều trọn đủ trong t tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn dạy: Hết thảy chúng sanh đều trí huệ đức tướng của Như Lai, thật đấy, chẳng giả đâu! Huệ Năng đại khai ngộ, nói: kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc (Nào ng t tánh vốn t trọn đủ), có cùng ư nghĩa như kinh Hoa Nghiêm đă nói.

      Khi q vị buông xuống, Tánh Đức trong tự tánh hiện tiền, bất luận quư vị học hay chẳng học, đúng là sáu căn vừa tiếp xúc bèn triệt để hiểu , đó là bản năng (năng lực sẵn có). T tiên Trung Quốc đă hiểu [điều này], nhưng nói quá đơn giản, cho nên người đời sau quá nửa hiểu cong vẹo, hiểu sai lầm. Tổ tiên ch nói một câu: Bổn tánh vốn lành. Câu đầu tiên trong Tam T Kinh là: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện (Con người thoạt đầu tánh vốn lành). Chúng ta thấy những ch này, ngay lập tức dựa trên văn t để suy đoán ư nghĩa, ng thiện ǵ? Thiện là thiện trong thiện ác. Chẳng phải vậy! Đó chẳng phải là thiện trongthiện, ác, chúng ta đă hiểu lầm mất rồi! Làm thế nào để hiểuthiện[trong câu nói đầu tiên của Tam T Kinh] chẳng phải là thiện trong thiện ác? Hăy dùng đạo được giảng trong kinh Phật để đọc lời l của tổ tiên. Do vậy, ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) nói rất hay! Người Trung Quốc tâm lượng rất lớn, dung nạp văn hóa Ấn Độ, đó dung nạp văn hóa ngoại lai, Phật giáo Ấn Độ đă làm phong phú văn hóa bản địa của Trung Quốc. Chúng ta nóithiện đây chẳng phải là thiện trongthiện, ác, điều này đă làm phong phú văn hóa bản địa của Trung Hoa.Thiện đây là tự tánh, chẳng phải là thiện trong thiện ác; có thiện và ác s chưa phải là thiện, sao? phân biệt, chấp trước. Thiện đây ǵ? t tánh như trong kinh Phật đă nói, pháp môn Bất Nh mới gọi làthiện. Nh là bất thiện; thiện ác nhị pháp, đối lập, chẳng thiện. Thiện thật sự chẳng đối lập. Nhà Phật nói Tánh, Tướng, Lư, Sự, nhân, quả một, không hai, lúc đó mới thiện, ư nghĩa này cũng rất sâu, Đại Thừa Phật pháp mới viên dung. phải ư nghĩa này hay chăng? Đúng vậy, tự tánh viên dung hết thảy các pháp, tuyệt đối chẳng hiểu sai ư nghĩa.

      Tổ tiên Trung Quốc chẳng đơn giản, quư vị thấy điều th nhất trong Ngũ Luân phụ tử hữu thân, thân () thân ái. Hiếu được biểu hiện như thế nào? thân ái. Cha con thân ái hiếu. Chữ Hiếu thuộc loại Hội Ư, quư vị hăy nh́n vào sự sáng tạo văn tự; thế, văn tự Trung Quốc chẳng thể sửa. Hễ sửa, ư nghĩa chẳng c̣n nữa! Q vị thấy phù hiệu này sẽ nghĩ đến ư nghĩa. Quư vị thấy chữ Hiếu (), phía trên Lăo (), phía dưới Tử (). Hai chữ này hợp lại, quư vị thấy được ư nghĩa sau đây: Một đời trước đời hiện tại cùng một Thể, đó Hiếu, ư nghĩa gốc của Hiếu. Trên một đời, c̣n có một một đời nữa, đời tiếp theo c̣n đời tiếp theo nữa. Quá kh không có khởi nguồn, v lai không kết thúc, nhất thể. Ư nghĩa này trong [văn tự] ngoại quốc không . Trong văn tự ngoại quốc càng chẳng cách nào nh́n ra [ư nghĩa này]; n tự Trung Quốc khéo quá, hay quá, tận thiện, tận mỹ. Quư vị nh́n vào văn tự Trung Quốc, nếu chẳng nhận biết [ư nghĩa được bao hàm trong từng chữ], tức chưa biết đọc; nhưng nếu thể nh́n ra ư nghĩa của , [sẽ thấy] đấy phù hiệu trí huệ.

      Chúng ta thấy Bát Địa Bồ Tát ly nhất thiết tâm ư thức phân biệt (ĺa hết thảy tâm ư thức phân biệt). Bát Địa Bồ Tát đă sớm chẳng c̣n tâm ư thức, sao? Trong Viên Giáo, Trụ Bồ Tát đă thoát ly mười pháp giới, sanh về cơi Thật Báo, đă chuyển thức thành trí, lẽ nào c̣n tâm ư thức phân biệt? Câu này nên hiểu ra sao? Câu này nói v tập khí minh từ thỉ, tập khí này hết sức mỏng nhẹ, hữu t́nh chúng sanh trong mười pháp giới, k c Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác trong mười pháp giới hoàn toàn chẳng biết [tập khí này hiện hữu], huống hồ phàm phu chúng ta! Chúng ta tưởng các Ngài đă hoàn toàn đoạn hết, [nào ng họ] chẳng thấy tập khí. Tập khí rất mỏng, chính các Ngài biết hay không? Chính các Ngài chẳng biết, người địa v cao hơn các Ngài sẽ biết, người địa vị thấp hơn các Ngài không biết. Cũng nghĩa là Thất Địa không biết [cảnh giới của] Bát Địa, nhưng Bát Địa biết Thất Địa; Bát Địa không biết Cửu Địa, nhưng Cửu Địa hiểu Bát Địa. đây nói: Ĺa hết thảy tâm ư thức phân biệt nói đến tập khí. Tập khí này hầu như đă đoạn được. Đạt tới Bát Địa th́ trên vị Bồ Tát ấy Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, cho đến Diệu Giác s hoàn toàn đoạn dứt, tập khí hoàn toàn chẳng c̣n. Bốn mươi mốt phẩm tập khí gần như Ngài đă đoạn hết, lúc ấy mới thật sự Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hiểu theo nghĩa rộng, địa v nào đắc Sanh Pháp Nhẫn? Trụ Bồ Tát đă đắc. sao? Ngài buông khởi tâm động niệm xuống, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm đoạn minh. Đoạn hết vô minh bèn chứng Pháp Thân, thoát ly mười pháp giới. vậy, chúng ta phải hiểu chỗ này! Nếu quư vị chẳng hiểu, s hoài nghi: Trụ Bồ Tát chẳng c̣n khởi tâm động niệm, c sao vẫn chưa thật sự chứng đắc Sanh Pháp Nhẫn? Nói theo phía chúng ta, Trụ Bồ Tát thật sự chứng đắc Sanh Pháp Nhẫn; nhưng đối với những địa v cao hơn Ngài, Ngài vẫn chưa chứng, phải đến lúc Ngài đắc Bát Địa Bồ Tát, người ta mới thừa nhận Ngài đă thật sự đắc Sanh Pháp Nhẫn. Cửu Địa, Thập Địa, Thập Nhất Địa, Diệu Giác. Thập Nhất Địa là Đẳng Giác. Bốn địa v trên Bát Địa chắc chắn đă đắc [Vô Sanh Pháp Nhẫn] đă đoạn tr tập khí.

      Khả kiến thử năi thánh giả chi sở nan, an năng kỳ chi ư cụ phược phàm phu (có thể thấy bậc thánh c̣n gặp khó khăn, làm sao phàm phu đầy dẫy triền phược ḥng làm được). Làm sao chúng ta thể thực hiện được? Đây nói niệm sanh [phàm phu chúng ta] chẳng làm được! Trụ mới chứng đắc niệm sanh, đến địa vị Bát Địa mới coi như viên măn, tập khí chẳng c̣n nữa. Thị Thiện Đạo đại Tứ Thiếp Sớ viết (do vậy, trong Tứ Thiếp Sớ của Thiện Đạo đại nói). Tứ Thiếp Sớ bản chú giải kinh Quán Lượng Thọ Phật của Thiện Đạo đại , bản chú giải có tên là Tứ Thiếp Sớ, c̣n gọi là Quán Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, đấy là [trước tác] của Thiện Đạo đại . Trong ấy, có một đoạn như thế này: Kim thử Quán môn đẳng(nay các phép Quán). Do kinh Quán Lượng Thọ Phật giảng tất c mười sáu phép Quán, cho nên Quán môn đẳng mười sáu phép Quán, đều chỉ phương lập ớng, [tức là] chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới, ch ra phương vị, lại c̣n dạy quư vị cách quán như thế nào. Phép Quán th nhất dạy quư vị quán h́nh dáng mặt trời lặn phương Tây, mặt trời lặn giống như cái trống treo. Khi mặt trời sắp lặn, đỏ rực như cái trống, bảo quư v nh́n điều ấy. Phải như thế nào mới là quán thành tựu? Mở banh con mắt bèn thấy, mà nhắm mắt, nó vẫn tại đó, vẫn trông thấy, th́ phép Quán này mới được gọi là quán thành. Mười sáu phép Quán này, bất luận quư vị quán thành một phép Quán nào, cầu sanh Tây Phương sẽ phần; chẳng phải c mười sáu phép Quán đều phải quán thành tựu. Bất luận một phép Quán nào, sau khi quán thành đều thể văng sanh thế giới Cực Lạc. Khó hơn niệm Phật! Chúng ta thấy ấn tượng v mặt trời đỏ rất sâu, trong căn pḥng này, chúng ta thấy mặt trời đỏ hiện hữu hay chăng? Hiện hữu! Nếu vậy, đó là [quán cảnh thành tựu] thật sự. Nếu không, phép Quán này chưa thành. Do vậy, quán tưởng cũng chẳng dễ dàng, tinh thần quư vị chưa thể chuyên chú, cảnh giớiy sẽ chẳng hiện tiền. sao th hiện tiền? Theo Lư, kinh Đại Thừa dạy: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, trong tâm quư vị thật sự có, nó s thật sự hiện ớng.

      Trong Thập Lục Quán Kinh cách quán tượng Phật, [tức là] Quán Tượng Niệm Phật; Quán Tưởng Niệm Phật, tưởng trong tâm nghĩ tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chỉ cần quư v vừa tưởng, cảnh giới bèn hiện tiền; khi quư vị chẳng tưởng, cảnh giới không c̣n nữa! Lúc nào tưởng, lúc ấy cảnh giới hiện tiền, văng sanh c̣n có vấn đề hay chăng? Khi lâm chung, tâm tưởng thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc bèn hiện tiền, Tây Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn quư vị, công phu này phải luyện thành trong lúc thường nhật. Quán Tượng Niệm Phật tạo một bức tượng A Di Đà Phật, mỗi ngày chiêm ngưỡng, cũng giống như [quán] mặt trời lặn giống như cái trống treo, thấy như thế nào? Mở banh con mắt, tượng Phật trước mặt; nhắm tịt mắt lại, tượng Phật vẫn hiện tiền, bất luận nơi đâu, quư vị vừa nghĩ, tượng Phật liền trước mặt, đó là Quán Tượng Niệm Phật. Phép Quán cuối cùng, tức phép Quán th mười sáu, là tŕ danh. Do vậy, Tŕ Danh Niệm Phật cũng có trong mười sáu phép Quán, là phép Quán cuối cùng trong mười sáu phép Quán. Phép cuối cùng quan trọng nhất. Ấn Độ Trung Quốc rất nhiều tập tục tương đồng, thứ tốt nhất đặt cuối cùng, áp trục (màn chót trong các cuộc biểu diễn ngh thuật). Cũng nghĩa là: Nếu dùng những phép Quán ấy mà quán chẳng thành th́ sao? Quán chẳng thành bèn niệm Phật. Niệm Phật thể văng sanh, dễ hơn bất c cách nào. vậy, Tŕ Danh Niệm Phật phép Quán th mười sáu; pháp môn này độ trọn hết thảy chúng sanh hữu duyên. Phải duyên!Hữu duyên quư vị tin tưởng, tín, nguyện, thật s niệm Phật, đó gọi làhữu duyên chúng sanh. Thiện Đạo đại nói: Vạn tu, vạn nhân khứ (vạn người tu, vạn người về). Do vậy, [cách tu này] chỉ phương lập tướng. Trụ tâm thủ cảnh (lắng tâm gi lấy cảnh), chẳng phải niệm, sanh; trụ tâm là bảo quư vị hăy chú tâm nơi cảnh giới, gi lấy cảnh giới. Tổng bất năng ớng ly niệm (nói chung là chưa th vô tướng ĺa niệm). Thập Lục Quán Kinh chẳng bảo quư vị ĺa ớng, mà cũng chẳng buộc quư vị ly niệm. Phương pháp Tŕ Danh này là phép Quán thứ mười sáu, đương nhiên cũng hữu niệm, cũng là hữu sanh, chẳng phải là ớng ly niệm.

      Như Lai huyền tri mạt đại tội trược phàm phu, lập ớng trụ tâm thượng bất năng đắc, huống ly ớng nhi cầu sự giả (Như Lai sớm biết phàm phu tội chướng nhơ bẩn trong đời Mạt Pháp, lập tướng để tr tâm c̣n chưa th làm được, huống h tu tập theo lối ĺa tướng): Như Lai đây là A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật, m rộng ra là hết thảy chư Phật Như Lai. Chư Phật Như Lai thị hiện làm Phật trong các thế giới khác nhau, giáo hóa chúng sanh, dùng pháp môn ? Đều dùng pháp môn này. sao? Pháp môn này thích hợp khắp ba căn, thâu trọn phàm lẫn thánh. Trừ pháp môn này ra, người thượng thượng căn có phần, ch k trung hạ căn chẳng có phần. Chúng sanh càng khổ nạn, hoặc, tội chướng, tập khí nặng nề, Như Lai càng đặc biệt thương xót bọn họ. Để độ bọn họ, ch pháp môn này. Pháp môn này của kinh Lượng Thọ hết sức thuận tiện, chuyên giảng tŕ danh niệm Phật, tín nguyện tŕ danh được rồi, thể đắc độ; nhưng pháp môn này đúng pháp khó tin! Ch cần quư vị kiên định ḷng tin, quyết định chẳng hoài nghi, sẽ đắc độ trong một đời này. Nếu hoài nghi th́ sao? Hễ hoài nghi, phải nghiên cứu kinh giáo. Đức Thế Tôn giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm nhắm vào đối tượng nào? Nhắm vào đối tượng kẻ nghi vấn, đặc biệt là những k nghi hoặc pháp môn Niệm Phật. Tín tâm của quư vị chẳng kiên định, nguyện tâm chẳng khẩn thiết, làm thế nào đây? Nghe kinh, đức Phật đă giảng cẩn thận, quư vị nghe ràng, nghe rồi hiểu rơ, tin tưởng. Do vậy, giảng kinh với dụng ư giúp đỡ chúng sanh đoạn nghi sanh tín. Nếu đă thật sự tin tưởng, chẳng hoài nghi nào, cần phải nghe kinh hay chăng? Chẳng cần thiết! Quư vị giữ lấy Tịnh Độ, nhất định thành tựu, không c̣n phải mất công nghe kinh, niệm một câu Phật hiệu đến cùng. Như vậy th́ trong Niệm Phật Đường thể chẳng cần nghe kinh ư? thể; nhưng v́ sao nay trong Niệm Phật Đường, chúng ta yêu cầu h phải nghe kinh? Họ chưa đủ tín nguyện, chẳng nghe kinh sẽ không xong! Q vị đọc Ấn Quang Đại Văn Sao, thời đại của tổ Ấn Quang cách thời đại chúng ta không xa, đại khái bảy mươi, tám mươi năm trước đây, vào thu Ấn Quang đại tại thế, Niệm Phật Đường trong thuở ấy không cho phép giảng kinh, chỉ giảng khai thị, chẳng giảng kinh! sao? Ḷng người thuần hậu, mọi người vào Niệm Phật Đường đều có tín tâm, chẳng hoài nghi, thật thà niệm Phật. Người niệm Phật hiện thời chẳng thật thà, nghi hoặc; chẳng đoạn nghi s không được. Chẳng đoạn nghi th́ sẽ chướng ngại quư vị. Quư vị thấy trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă dạy rất hay: Nghi chướng ngại lớn nhất của Bồ Tát, chướng ngại ǵ? Chướng ngại tinh tấn. Nghi c̣n có th chướng ngại các Bồ Tát tinh tấn th́ đối với phàm phu chúng ta, gây chướng ngại càng to hơn, chướng ngại vậy? Chướng ngại quư vị giác ngộ. Quư vị nghi, nghe kinh không hiểu, đọc kinh chẳng liễu giải ư nghĩa, điều ǵ chướng ngại vậy? Chướng ngại chính là ḷng hoài nghi; do quư vị hoài nghi, nên chẳng cung kính kinh giáo, Phật có muốn gia tŕ quư vị cũng không được! Ấn Quang đại nói rất hay: Một phần thành kính đắc một phần lợi ích, mười phần thành kính đắc mười phần lợi ích. Q vị thiếu tâm cung kính quư vị hoài nghi. Thiếu tâm cung kính, s chẳng đạt được lợi ích, nghe cũng không hiểu, nghe vài chục năm vẫn không hiểu. Nghe không hiểu vẫn phải nghe, đức Phật cùng từ bi, không ngại phiền phức, nghe mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, sẽ nghe hiểu, nghe hiểu rồi s chẳng hoài nghi nữa. Khi quư v chẳng c̣n hoài nghi, tiến bộ cũng nhanh chóng, s cảm thấy mỗi năm mỗi khác. Tới khi nào, quư vị th cảm thấy mỗi tháng đều khác nhau, cảnh giới chẳng giống nhau, chắc chắn quư vị được văng sanh. Mỗi năm khác nhau, đó cảnh giới tốt đẹp, nhưng văng sanh chưa nắm chắc. Mỗi tháng đều khác nhau, nắm chắc văng sanh! Câu kế tiếp là t dụ, tự thuật thông nhân, không an lập (cũng giống như k chẳng có thần thông hay pháp thuật xây nhà trên không). Đây phàm phu mong muốn niệm, sanh, khế nhập cảnh giới này, giống như k chẳng thần thông lại toan xây nhà trên hư không, có được hay chăng? Người có thần thông th́ được, k không thần thông chẳng làm được! Có nghĩa là: Nếu phàm phu chúng ta muốn khế nhập niệm sanh, s giống như k chẳng có thần thông toan cất nhà trên hư không. Đây là một câu trong Tứ Thiếp Sớ.

      Kế đó, cụ Hoàng Niệm Tổ nói: Cái chúng sanh vọng tâm, niệm niệm tương tục, như cấp lưu thủy, tùng vị tạm tức (ấy là v́ chúng sanh vọng tâm niệm niệm tiếp nối như ḍng nước chảy xiết, chưa h tạm ngừng). Tỷ dụ này hay lắm, đúng như vậy, chúng ta vọng tâm, vọng tâm ǵ? khởi tâm động niệm! Khởi tâm động niệm cùng vi tế; tâm vừa động, vọng tâm bèn xuất hiện. Vọng tâm A Lại Da, A Lại Da cũng chẳng ĺa tự tánh, từ chân khởi vọng. Nói thật ra, chân và vọng chẳng hai. Do chân và vọng chẳng hai, nên chư Phật Như Lai thấy hết thảy chúng sanh đều Phật, hết thảy chúng sanh vốn Phật, sao? Chân vọng chẳng hai. A Lại Da chẳng rời khỏi tự tánh, chỉ lệch khỏi Tánh Đức, trái nghịch, xa rời Tánh Đức, nên sanh ra những huyễn tướng ấy. Không như tứ thánh pháp giới, tứ thánh pháp giới cũng dùng A Lại Da, nhưng các Ngài thật thà, nghe lời, vâng lời dạy của chư Phật Như Lai, y giáo phụng hành; do đó, các Ngài học rất tốt đẹp, học rất giống Phật. Chưa phải là Phật thật sự, nên gọi là Tương Tự Tức Phật. Thiên Thai đại nói các v trong t thánh pháp giới rất giống Phật. sao chưa phải chân Phật? Họ dùng A Lại Da, vẫn dùng vọng tâm; tuy dùng vọng tâm nhưng học rất giống. Khi nào buông vọng tâm xuống, chân tâm s hiện tiền. V ấy chân Phật, đó gọi làchuyển thức thành trí, đó chân Phật, chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí. Đại Viên Kính Trí ǵ? Đại Viên Kính Trí Thường Tịch Quang. Do mê, Thường Tịch Quang bèn biến thành A Lại Da, hễ giác th́ Thường Tịch Quang. Trí huệ trong Thường Tịch Quang Chuyển Tướng của A Lại Da, tức là Kiến Phần của A Lại Da. Đức tướng của Thường Tịch Quang Cảnh Giới Tướng của A Lại Da, tức Tướng Phần. Nó b biến chất, tuy không h́nh tướng, mà có th biến ra h́nh tướng. Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết) trong t tánh chẳng sanh, chẳng diệt. Trong A Lại Da Thức, kiến văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. vậy, Thọ, Tưởng, Hành, Thức từ kiến văn giác tri biến ra. Thọ, Tưởng, Hành, Thức sanh diệt, kiến văn giác tri chẳng sanh diệt.

      Thế giới này dường như tồn tại do nguyên nhân nào? Niệm niệm nối tiếp, vọng tâm khởi tâm động niệm. Trong lục đạo, chúng ta không chỉ khởi tâm động niệm, c̣n phân biệt, chấp trước. Nếu quư vị chẳng chấp trước, lục đạo sẽ chẳng có. khởi tâm động niệm, phân biệt, bèn tứ thánh pháp giới, trong Tịnh Độ gọi [t thánh pháp giới] là cơi Phương Tiện Hữu . Có chấp trước, bèn cơi Phàm Thánh Đồng , lục đạo luân hồi. vậy, quư vị nói xem: Có phải là chấp trước tổn hại chúng ta nhiều lắm, mang lại cho chúng ta lắm nỗi thống khổ? Lục đạo quá kh sở! Đức Phật đă nói ràng như thế, nay chúng ta cũng biết, th buông chấp trước xuống hay chăng? Vẫn chưa thể, vẫn c chấp trước. Do nguyên nhân ǵ? Tập nhiễm quá nặng, thời gian đă quá lâu, dưỡng thành thói quen, hữu ư hay vô ư khởi hiện hành. Tu hành tu theo cách nào? Thời thời khắc khắc hăy cảnh giác; các v đại đức trong Tông Môn đă nói rất hay: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. sao chẳng sợ niệm khởi? Niệm niệm tiếp nối, l nào chẳng khởi lên cho được? Đă trở thành thói quen, s khởi lên. Khởi lên chẳng sợ, vấn đề quư vị phải giác ngộ, phải hiểu rơ, đừng b nó mê hoặc. Giác như thế nào? Giác hiện tượng chẳng chấp trước, h giác ngộ th́ địa v A La Hán bèn chẳng phân biệt, địa v Bồ Tát bèn chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, từ Sơ Tr tr lên thuộc vào địa v Phật; đó là Giác. Nay chúng ta chẳng giác, ngay c tầng cấp A La Hán vẫn chưa đạt được. Chúng ta học tập, vẫn phải biện luận, vẫn phải suy xét, đó là ǵ? Đó là đang chấp trước. Chẳng chấp trước th́ biện luận hay chăng? Chẳng chấp trước sẽ chẳng có biện luận. Khi q vị thấy người khác biện luận sẽ cười kh́, cười kh́ là ǵ? Cười kh́ tức là dấy lên phân biệt, tuy chẳng chấp trước, cao hơn k ấy (k chấp trước) một chút, nhưng vẫn chưa được! Đến tầng bậc cao như như bất động, chẳng th hiện t́nh cảm ǵ, cảnh giới càng cao; cười kh́ là c̣n khá lắm, so ra c̣n cao hơn k chấp trước một tầng. Chưa từng ngưng dứt, câu này là lời răn nhắc rất quan trọng đối với chúng ta.

      Kim nhược miễn cưỡng án nại, thô niệm tuy đắc sảo tức, tế niệm tùng vị tạm chỉ (nay nếu miễn cưỡng đè nén, tuy thô niệm hơi ngưng nghỉ, tế niệm chưa h tạm dứt). Nay các đồng học chúng ta đọc câu văn này đều thể giải, khẳng định: Chuyện này chẳng th miễn cưỡng, càng miễn cưỡng càng phiền phức. vậy, đức Phật rất kiên nhẫn, chẳng nóng ruột tí nào, c thong th giáo hóa. Chúng sanh ô nhiễm bao kiếp dài lâu, dưỡng thành tập khí phiền năo này, Bồ Tát cũng thể hóa giải [tập khí y] trong bao nhiêu kiếp. Nếu đời này, chúng ta nắm được cơ hội, th ǵ cũng đều buông xuống, nhất tâm niệm Phật, thật sự văng sanh Tịnh Độ, phải đời này mới bắt đầu [tu tập] hay không? Chẳng phải, văng sanh thế giới Cực Lạc, quư vị sẽ thấy đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đều học Phật, học bao nhiêu đời, nhưng đời này thành công, thoát ly lục đạo luân hồi. Quư vị cảm thấy vô cùng may mắn, rất cảm ơn A Di Đà Phật, sao? Nếu chẳng do pháp môn này, quư vị tu bất luận một pháp môn nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chắc chắn chẳng thể thành tựu trong một đời này. sao? Bất cứ một pháp môn nào cũng đều phải buông phiền năo xuống, quư vị mới thể vượt lên, nhưng pháp môn này không cần, không cần buông phiền năo tập khí xuống, cách này dễ dàng. Khăng khăng một mực theo chắc A Di Đà Phật, một bước cũng chẳng chịu buông, sẽ đến thế giới Cực Lạc. Quư vị thấy [s khăng khăng bám chắc nơi A Di Đà Phật] chấp trước; nhưng Tịnh Tông chẳng sợ chấp trước! Chấp tŕ danh hiệu chấp trước, tŕ bảo tŕ (gi ǵn), chớ nên đánh mất, chấp trước kiên cố, chấp trước A Di Đà Phật, chẳng cần đến những th khác. Người ấy văng sanh Cực Lạc thế giới trong cơi Phàm Thánh Đồng , tốt lắm! Trong thế giới Cực Lạc, cơi Phàm Thánh Đồng cơi Thật Báo Trang Nghiêm chẳng sai khác, chúng cùng một chỗ, chẳng bị chướng ngại bởi các chiều không gian; nhưng trong thế giới của chúng ta th́ có, thế giới bên kia chẳng có, sao chẳng có? Chướng ngại v chiều không gian do chấp trước, phân biệt; quư vị chẳng c̣n phân biệt, chấp trước, chướng ngại này s không c̣n nữa!

Phân biệt, chấp trước chưa đoạn, chẳng phải là sẽ mang tập khí này sang thế giới Cực Lạc ư? Chẳng sao cả! Người trong thế giới Cực Lạc thảy đều chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, quư vị đến nơi ấy, s rất nhanh chóng, trong ṿng vài ngày s quen nếp, cũng sẽ buông tập khí phân biệt, chấp trước ấy xuống. sao? Phân biệt, chấp trước do quư vị mong đạt được th ǵ đó, dục vọng chẳng thỏa, nên mới chấp trước. Nếu hết thảy những ǵ quư v cần, vừa nghĩ đến bèn có, chẳng cần nữa sẽ biến mất, q vị thấy t tại lắm! Do bốn mươi tám nguyện của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị đến thế giới Cực Lạc, nghĩ đều có, thảy đều có th đạt được. Cổ đức thường nói: y đắc y, thực đắc thực (nghĩ đến y phục bèn có y phục, nghĩ tới ăn bèn có ăn), không cần sức người làm lụng. Đối với y phục, chẳng cần mua vải vóc, chẳng phải cắt may, vừa nghĩ tới, y phục bèn khoác trên thân. Khi nghĩ đến th́ thức ăn trăm vị, kinh thường chép: Bách vị ẩm thực, chuyện này có điển cố. Khi ăn là một trăm món; xưa kia, mỗi bữa ăn của hoàng đế gồm một trăm món ăn. Bất luận nhà vua ăn hay không, mỗi bữa ăn là một trăm món, bách vị ẩm thực mà! Cuộc sống vật chất của quư vị [trong thế giới Cực Lạc] giống như đế vương, cũng chẳng cần đến sức người làm lụng, quư vị vừa nghĩ th ǵ, thứ ấy ngay trước mặt, ăn xong, không cần nữa th́ sẽ chẳng thấy nữa. Sạch sẽ, chẳng nhiễm mảy trần. Thật ư? Thật đấy! sao thật ? Các khoa học gia nói năng lượng thể biến thành vật chất, vật chất thể biến thành năng lượng. Trong thế giới hiện tại, th biến vật chất thành năng lượng, bom hạch nhân (bom nguyên tử) được phát minh do điều này, nhưng hiện thời [khoa học] chưa th biến năng lượng thành vật chất, tuy biết là chuyện có thể, nhưng chưa làm được! Trong thế giới Cực Lạc làm được, mỗi nhân đều năng lực này. H chẳng cần dùng khí c nào, mà dùng ư niệm. Trong tâm h muốn th ǵ, năng lượng tự nhiên biến thành vật chất cho họ th dụng. Không cần th dụng th́ vật chất hóa thành năng lượng, chẳng c̣n nữa, chẳng cần đến kho chứa. Cung điện nơi h trống trơn, chẳng có ǵ cả, cần ǵ có nấy, nên chẳng có kho chứa, quư vị nói có phải t tại lắm hay không? Trong hoàn cảnh ấy, khi sống trong ấy, dần dần quư vị sẽ chẳng c̣n vọng tưởng nữa. Quư vị c̣n muốn có tiền ư? Tiền muốn bao nhiêu s có bấy nhiêu. Quư vị muốn hoàng kim, người ta dùng hoàng kim phủ đất, trải đường, quư vị đem nhựa đường chất đống trong nhà hay chăng? Tôi tin quư vị sẽ không làm như vậy. sao? đây, hoàng kim quá ít, nó là kim loại hiếm có, c̣n bên kia quá nhiều. Quư vị cần thất bảo, một viên kim cương bé tí đem cắt thành nhẫn đeo tay rất đẹp, người ta làm như thế nào? Người ta đem cả khối kim cương lớn cắt thành vật liệu xây cất, dùng làm vật liệu xây nhà. Do vậy, tới thế giới y, tâm tham lam hưởng th vật chất ngay lập tức s chẳng c̣n nữa!

      Do vậy biết rằng: Thế giới Cực Lạc tài nguyên phong phú ngần ấy, quá phong phú. Tài nguyên ấy do đâu mà có? Trong t tánh. Thế giới này cũng có, cũng phong phú giống hệt như vậy, nhưng trong thế giới này, thất bảo biến thành thứ ǵ? Biến thành cát, thành bùn đất. Ai học khoa học cũng biết chúng biến thành những th ấy. sao biến thành những th ấy? Ư niệm chẳng thiện, dấy lên tham, sân, si; do vậy, trân bảo trong tự tánh đều biến thành ô nhiễm. Trong giáo pháp Đại Thừa, một câu nói diễn t đại đạo : Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng; bên thế giới Cực Lạc giai thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất x (đều là các v thượng thiện nhân nhóm họp cùng một chỗ), người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thượng thiện. Chúng ta niệm Phật phải tu thiện; chẳng tu thiện, c̣n tham, sân, si, mạn, dẫu niệm Phật vẫn chưa thể văng sanh. Kinh đă giảng rất ràng: Phát Bồ Đề tâm, c̣n phải tu Bồ Tát Lục Ba La Mật, đem công đức ấy hồi hướng Tịnh Độ mới được văng sanh. Chúng ta thấy rất nhiều kẻ bần cùng, chẳng tu Lục Ba La Mật, sao cũng văng sanh? Quư vị quan sát t mỉ, [s thấy] tuy h không tu, nhưng Lục Ba La Mật đă viên măn. Bố thí nhằm mục đích đoạn tâm tham, tuy h bần cùng, trước nay chưa hề bố thí, nhưng chẳng tham luyến thế gian này, nên B Thí Ba La Mật viên măn. T giới phá ác nghiệp, họ niệm câu Phật hiệu này, chẳng làm ác nữa, nên T Giới Ba La Mật viên măn. Nhẫn nhục nhằm đối trị sân khuể, trong tâm họ, đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự chẳng có tâm sân khuể, cũng chẳng oán hờn người khác. Tinh tấn là niệm Phật chẳng giải đăi; Thiền Định là nhất tâm nhất ư; trí huệ là chọn lựa pháp môn này, chẳng hoài nghi tí nào. Quư vị hăy nghĩ xem: Bà lăo một ch không biết, nhưng thảy đều trọn đủ, tương ứng với những ǵ kinh đă dạy. Quư v quan sát cặn kẽ, [s thấy] những điều kiện như kinh đă dạy, người y thảy đều trọn đủ.

      Hành nhân thảng nhược thác nhận, tiện vân tương ứng (hành nhân nếu ng nhận, liền cho là đă tương ng), đó là lầm to rồi. Hành nhân người niệm Phật, đây chỉ người niệm Phật tu Tịnh Độ. Thô niệm hơi ngưng dứt đôi chút, nhưng tế niệm về căn bản chưa đ́nh chỉ. Nếu tế niệm đă đoạn, tốt lắm, Thường Tịch Quang Tịnh Độ hiện tiền, bèn minh tâm kiến tánh. Tế niệm đoạn rồi, chính ḿnh biết hay không? Biết chứ, rơ ràng, rành rẽ, thật sự buông xuống, triệt để buông xuống. Lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, không chỉ nhân gian, thiên thượng, mà c y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới toàn bộ đều buông xuống, đó là tế niệm đă đoạn rồi, chỉ cần kiến tánh, sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển. Huệ Năng đại đă kiến tánh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă kiến tánh, thân th vẫn lưu trong thế gian, kinh Phật gọi trường hợp này là Hữu Dư Y Niết Bàn. Niết Bàn nghĩa là chính Ngài đă chứng đắc cảnh giới, kiến tánh. Kiến tánh chứng Niết Bàn, nhập Đại Bát Niết Bàn, kiến tánh kiến đạo. Tuy đă kiến đạo, nhưng thân th vẫn c̣n, những tướng đă hiện đều tồn tại, đó ǵ? Tập khí chưa đoạn. Tập khí chưa đoạn cũng không sao cả, sao? trong cảnh giới y, Ngài chẳng c̣n khởi tâm động niệm, vĩnh viễn giữ được cảnh giới này, đó gọi là Bất Thoái. Ba món Bất Thoái là V Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái. Sơ Trụ Bồ Tát chứng ba món Bất Thoái, nhưng Ngài tập khí.

      vậy, trong Tịnh Tông, trong bổn nguyện của A Di Đà Phật nguyện th mười chín, sanh về thế giới Cực Lạc, giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát (đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát), câu này tuyệt lắm! A Duy Việt Trí ǵ? A Duy Việt Trí viên chứng ba món Bất Thoái, chứng ba món Bất Thoái lại c̣n thêm một ch Viên. Trụ Bồ Tát chứng ba món Bất Thoái, nhưng chưa thể nói viên. Viên ǵ? Tập khí cũng đă đoạn. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật dạy chúng ta: T Thất Địa tr lên, Bát Địa chứng Sanh Pháp Nhẫn, Thất Địa viên chứng ba món Bất Thoái, c̣n thua Bát Địa Bồ Tát một bậc. Tịnh Tông được gọi là pháp khó tin,khó tin đây có nghĩa làai chịu tin tưởng! Quư vị phàm phu, niệm A Di Đà Phật sanh về thế giới Cực Lạc, là h h phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng quả đức thù thắng ngần ấy, ai tin được? Nay chúng ta đă hiểu rơ ràng, chẳng phải h văng sanh sẽ thật sự được nâng cao tới phẩm vị này, chẳng phải vậy, người y vẫn là phàm phu, chưa đoạn tập khí phiền năo, chỉ khuất phục phiền năo, nhưng bên ấy chẳng duyên [khiến cho phiền năo dấy động]. Tuy chủng tử nhưng thiếu duyên, các phiền năo chẳng th khởi hiện hành. Hoàn cảnh [bên Cực Lạc] đúng là quá tốt đẹp, đạo ch này. Tới thế giới Cực Lạc, trí huệ và đức năng bèn có năng lực cảm ứng đạo giao với chúng sanh trong mười pháp giới. Chúng sanh cảm, họ bèn ứng, năng lực giống như Phật, Bồ Tát ứng hóa độ chúng sanh. Năng lực do đâu mà có? Do bổn nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, chẳng phải do chính họ. Họ phải thong thả tu đến địa vị Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, cho đến lúc ấy [năng lực hóa độ chúng sanh mới] của chính ḿnh; chưa đạt đến tŕnh độ ấy, sẽ do oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ; Phật lực chẳng thể nghĩ bàn! Pháp môn này gọi Nhị Lực Pháp Môn. vậy, [thần thông, trí huệ, đạo lực] chẳng phải do tương ứng, do Phật gia tŕ, chúng ta phải hiểu đạo này.

      Ư thị đại bi từ phụ (do vậy, đấng cha lành đại bi), đây là nói v A Di Đà Phật. Hưng duyên chi từ, thùy kỳ diệu phương tiện pháp môn, chỉ phương lập ớng, nhiếp tâm chuyên chú, tức thử vọng tâm, tŕ Phật danh hiệu, niệm nhất Phật danh, hoán trừ bách thiên vạn ức vọng tưởng tạp niệm, niệm đắc thuần thục, năi vong năng sở, tâm sở trụ, Phật hiệu phân minh, ám hợp đạo diệu , tiện khế Kim Cang Bát Nhă Kinh trụ sanh tâm chi diệu đế (Khởi ḷng T vô duyên, ban pháp môn phương tiện kỳ diệu này, ch phương, lập tướng [để hành nhân] nhiếp tâm, chuyên chú, dùng chính cái vọng tâm này để tŕ danh hiệu Phật. Niệm một danh hiệu Phật nhằm thay thế, tr b trăm ngàn vạn ức tạp niệm vọng tưởng. Niệm đến mức thuần thục s quên mất Năng lẫn Sở, tâm chẳng tr vào đâu, Phật hiệu phân minh, ngầm hợp đạo mầu, liền khế nhập chân lư mầu nhiệmvô tr sanh tâmtrong kinh Kim Cang Bát Nhă). Cụ Niệm Tổ viết đoạn này rất hay, đây A Di Đà Phật duyên đại từ, truyền cho chúng ta một pháp môn thuận tiện như vậy, thuận tiện hơn bất c pháp môn nào, chẳng t́m được pháp nào thuận tiện hơn bốn chA Di Đà Phật. Trong tâm q vị thật sự câu A Di Đà Phật này, niệm niệm chẳng quên, hết thảy thời, hết thảy chỗ trong tâm thật s [câu danh hiệu y], quư vị sẽ thành công. Niệm bao lâu mới thể văng sanh, quả báo mới thể hiện tiền? Chúng ta hăy đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện, đại khái quá nửa là ba năm.

      Thuở đầu, khi tôi giảng kinh, khi đó ước chừng tôi hơn bốn mươi tuổi, tôi ra giảng kinh lúc ba mươi ba tuổi, pháp đến hỏi tôi, ông ta hoài nghi, nói:Có phải những người được k trong Văng Sanh Truyện Tịnh Độ Thánh Hiền Lục từ khi h bắt đầu niệm Phật tới lúc văng sanh, thọ mạng của h ch c̣n vừa đúng ba năm, do thọ mạng đă hết, A Di Đà Phật bèn đến tiếp dẫn họ ra đi?Đem vấn đề này hỏi tôi. Tôi nói:Cách nghĩ của ông chẳng hợp lư luận! Một, hai người hay ba bốn người th́ có thể, ch đằng này nhiều quá. Nhiều quá nên [lập luận của ông] chẳng hợp lư. V́ sao ba năm h ra đi? Chỉ cần họ đạt công phu thành phiến, tuy c̣n thọ mạng nhưng chẳng cần đến, ra đi sớm. Niệm đến mức công phu thành phiến bèn sanh tử tự tại. Nói như thế mới thông suốt, viên măn. người niệm tới tŕnh độ này, nhưng vẫn chưa đi, v́ l ǵ? Người ấy có duyên với chúng sanh trong thế gian này, đă duyên, phải mang thêm mấy người cùng đi, mang càng nhiều càng hay nên người y lưu lại. Người ấy sanh tử tự tại, muốn đi lúc nào bèn đi lúc ấy, thật sự năng lực này. Quư v hăy quan sát cẩn thận người như vậy, tuyệt đối chẳng t tư t lợi, chắc chắn chẳng có [ư niệm tham đắm] tiếng tăm, lợi dưỡng, nhất định chẳng tham, sân, si, mạn, quư vị hăy quan sát cẩn thận. Nhưng khi hóa độ, h cũng biểu diễn, cũng nổi nóng, giống như hát tuồng; chẳng làm như vậy s không thể thực hiện [s hóa độ] được, nhưng trong tâm qu thật chẳng có. Trung Quốc có một câu ngạn ng để h́nh dung hạng người này: Đao tử khẩu, đậu hủ tâm (Miệng dao găm, ḷng đậu phụ). Tâm địa rất dịu dàng, làm như thế đó nhằm thực hiện s hóa độ, đó thiện xảo phương tiện, chẳng phải là thật, quan sát cẩn thận quư vị sẽ có thể thấy được. Chúng ta thường gọi h làbậc tái lai, họ thể đi, nhưng chậm lại mấy năm, lại thêm vài năm nhằm giúp đỡ chúng sanh hữu duyên. Nếu không duyên, họ bèn ra đi.Không có duyênchính là người y dạy mà chẳng ai nghe, người ta không tin tưởng, nên người y ra đi. Ra đi cũng nhằm độ chúng sanh, tướng lành lúc người y mất khiến cho những k b́nh phàm trông thấy, sanh khởi ḷng tin, phát tâm học Phật. vậy, người y ra đi cũng độ chúng sanh, lại thế gian cũng độ chúng sanh.

      đây, chúng ta phải đặc biệt lưu ư, trong đây có một câu nói phải khéo hiểu, chỉ phương lập tương, nhiếp tâm chuyên chú, tức thử vọng tâm, tŕ Phật danh hiệu, niệm nhất Phật danh (ch phương lập tướng, nhiếp tâm chuyên chú, dùng ngay cái vọng tâm này để tŕ danh hiệu Phật. Niệm một danh hiệu Phật), niệm A Di Đà Phật, hoán trừ bách thiên vạn ức vọng tưởng tạp niệm (thay thế, tr kh trăm ngàn vạn ức vọng tưởng, tạp niệm), câu này trọng yếu lắm! Niệm Phật công đức ǵ? Đấy công đức, công đức chân thật. Khi quư v chẳng niệm Phật, có vọng tưởng, tạp niệm; một mực niệm một câu Phật hiệu, quư vị sẽ chẳng có vọng tưởng; niệm Phật để tr vọng tưởng, tạp niệm, đó là công đức chân thật. Tạp niệm, vọng tưởng đang tạo nghiệp, rất nhiều người chẳng biết điều này.Tôi chẳng làm chuyện xấu, dấy lên một ác niệm đă tạo rồi! vậy, tŕ danh niệm Phật nhằm trực tiếp khiến cho quư vị chẳng khởi ác niệm. Không chỉ ác niệm chẳng th khởi, mà thiện niệm trong lục đạo cũng không khởi! Q vị khởi thiện niệm sẽ cảm vời quả báo trong ba đường lành, ác niệm cảm vời quả báo trong ba đường ác. Thiện niệm hay ác niệm đều chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong một câu A Di Đà Phật này, chẳng lục đạo luân hồi; người ấy (người niệm Phật) chẳng trong lục đạo, A Di Đà Phật Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị phải hiểu rơ đạo này. sao niệm Phật? Niệm Phật chẳng tạo nghiệp, niệm niệm A Di Đà Phật, đó gọi là Tịnh nghiệp, người y tương ứng với Tây Phương Tịnh Độ. vậy, h niệm Phật hiệu bèn tương ứng với Phật. Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. Chúng ta nghĩ lại trong giáo pháp Đại Thừa, đức Thế Tôn thường bảo: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Chúng ta vốn Phật, hiện tại niệm niệm đều Phật, lẽ nào người y chẳng thành Phật? Quả v cao nhất trong mười pháp giới Phật Quả, c̣n phải vượt qua [qu v ấy]! Do trong mười pháp giới, vẫn chưa thoát khỏi mười pháp giới; niệm A Di Đà Phật bèn vượt thoát mười pháp giới. H h phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng của Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng vượt khỏi mười pháp giới, nhất định phải biết sự thật này, đường tắt mà! Ổn thỏa, xác đáng! Do vậy, thể tin, thể nguyện, thể hành, đó trí huệ khôn sánh. Nếu chẳng phải là giác ngộ thật sự, trí huệ chân thật chân chánh, người y s chẳng chọn lấy pháp môn này trong một đời này!

      Khi niệm đến thuần thục, s nhập pháp môn Bất Nhị. Năi vong năng sở (bèn quên mất Năng và Sở), Năng và Sở tượng trưng cho tương đối, Năng và Sở chẳng hai. Tâm sở trụ(tâm chẳng trụ vào đâu), chẳng tr sở niệm (đức Phật được ta niệm), cũng chẳng tr năng niệm (cái tâm niệm Phật), Năng lẫn Sở đều chẳng trụ, hiểu rơ ràng, rành r một câu Phật hiệu này; cảnh giới ấy gọi là ám hợp đạo diệu (thầm hợp đạo mầu), đạo diệu là như kinh Kim Cang đă dạy: trụ sanh tâm . sao gọi nó đạo diệu? Huệ Năng đại khai ngộ do câu này. Tục ng Trung Hoa thường nói đắc đạo trong một câu. Ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn giảng kinh Kim Cang cho Lục Tổ nghe, đương nhiên giảng đại ư, Lục Tổ không biết chữ, chắc chắn không đọc kinh bổn; giảng đến câu Ưng sở trụ nhi sanh kỳ tâm (đừng tr vào đâu để sanh tâm), Lục T bèn hoát nhiên đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Khi đó, Lục Tổ hai mươi bốn tuổi, rất trẻ, Ngũ Tổ truyền y bát cho Ngài. Nửa đêm, truyền y bát cho Ngài, bảo Ngài đi ngay lập tức, do nguyên nhân ǵ? Tổ cũng biểu diễn pháp cho chúng ta thấy, nhằm dạy chúng ta học tập: Ganh ghét, chướng ngại chuyện chẳng thể tránh được. Thần Tú theo Ngũ Tổ đă bao nhiêu năm, Th Tọa trong các đồng học, là lớp trưởng, trợ giáo của Nhẫn ḥa thượng. Các đồng học cho rằng nếu Ngũ Tổ truyền pháp, trong ḷng mọi người đều đoan quyết T s truyền cho Thần Tú, sao lại là người khác? Nay y bát truyền cho một k t nơi khác đến, hết thảy mọi người đều coi thường hắn. Trong tự viện, người đông dường ấy, tới c ngàn người, trong ḷng những người đó có phục hay chăng? V́ l nào Ngũ Tổ lại truyền y bát cho người khác? Đó là chuyện không th chấp nhận được, nhất định phải đoạt tr về. Có l là lăo ḥa thượng tuổi đă cao, nhất thời hồ đồ, đem y bát truyền cho k chẳng liên can! Do vậy, Ngũ Tổ nói:Ngươi hăy mau trốn đi. Cuối cùng trốn trong phường thợ săn mười lăm năm, mười lăm năm khiến mọi người quên dần chuyện này, Ngài mới xuất hiện. Chúng ta phải ghi nh lời giáo huấn này. Thu ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ, đi các nơi giảng kinh, nói pháp, nhiều k đố kỵ! Lục ngoại đạo đố kỵ, đó đối với các tôn giáo khác, là người ngoài. Trong nhà có người đố kỵ chăng? chứ! Đề Bà Đạt Đa là k đố k s một! Nhưng đức Phật trí huệ chân thật, đức năng chân thật, thể bao dung, tránh ông ta, đức Phật năng lực ấy. Những chuyện này đều nhằm th hiện cho chúng ta thấy: Phật, T thành tựu đều gian nan ngần ấy; chúng ta muốn b́nh an, thành tựu ổn thỏa, thích đáng, đâu có đại phước báo như vậy? Do vậy, hết thảy chướng ngại chuyện không thể tránh được, phải dùng trí huệ và đức hạnh, dùng tâm nhẫn nại để khắc phục. Đối với chúng ta mà nói, hết thảy chướng ngại khảo nghiệm, cửa ải nào chúng ta cũng đều vượt qua, s đạt tiêu chuẩn, quư vị bèn thành tựu. Có cửa ải nào chẳng th vượt qua, q vị bèn đọa lạc. H đọa lạc, chẳng biết phải tới đời nảo đời nao mới có th tiếp tục tu. Người thật sự tu hành, thật sự mong thành tựu trong một đời này, chẳng th không biết [điều này].

      trụ sanh tâm, trụ thanh tịnh tịch diệt. Thuật ngữ trong Phật môn [gọi vô tr sanh tâm là] Đại Bát Niết Bàn, trong Tịnh Độ gọi Thường Tịch Quang, tức Thường Tịch Quang Tịnh Độ trong bốn cơi. Trên thực tế, là tự tánh. Trở về tự tánh, vọng tận, hoàn nguyên, hoàn nguyên s chẳng trụ. Người ấy sanh tâm sanh cái tâm ǵ? Chúng sanh cảm bèn có ứng. Ngài th́ ứng. Sứngấy chính là đại t bi tâm, đại Bồ Đề tâm. vậy, cảnh giới Niết Bàn chẳng phải chết cứng, mà sống động, v́ trong cảnh giới ấy không hiện tượng vật chất, cũng không hiện tượng tinh thần. Chuyện này rất kỳ quái, không hiện tượng tinh thần, mà sống động hoạt bát, chẳng chết cứng! Do vậy, chúng sanh cảm th́ Ngài bèn có ứng, dẫu là cảm cực kỳ vi tế vẫn luôn ứng, tuy yếu ớt, nh nhoi đến nỗi khí c khoa học của chúng ta trong hiện tại chẳng th ḍ xét được, nhưng nó là thật! Quư vị hăy nghĩ xem, một niệm này chính là một phần của một ngàn hai trăm tám mươi triệu của một giây, ư niệm vi tế như thế! Tâm vô trụ chân tâm, nó thể cảm ứng, cảm phản hồi thành ứng. Ứng sanh tâm. Sanh tâm ǵ? Tuyệt đối chẳng phải hữu ư. Ngài không ư, cũng chẳng niệm, vậy gọi là Ứng. Chúng sanh cảm Ngài bèn ứng. Ứng tùy thuận cảm một nơi nào đó, chính ḿnh tuyệt đối chẳng h khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng (thuận ḷng chúng sanh, ứng với kh năng nhận biết của họ), đây là nguyên lư cảm ứng. Chúng sanh cầu Phật, Ngài bèn hiện thân Phật; chúng sanh cầu Bồ Tát, Ngài bèn hiện thân Bồ Tát, thân ǵ Ngài cũng đều thể hiện. Quư vị ưa thích ǵ, Ngài bèn hiện thân ấy. Có thể hiện cây cối, hoa, cỏ, cũng thể hiện sơn , đại địa. Cái thân hiện ra ấy, tức ứng thân ấy chắc chắn s giúp cho quư vị ngộ xứ. Đạo lư cảm ứng được giảng rất nhiều trong kinh Hoa Nghiêm, hiển cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng (cảm rơ rệt ứng ngấm ngầm), minh cảm minh ứng (cảm lẫn ứng đều âm thầm), minh cảm hiển ứng (cảm âm thầm, ứng rơ rệt), quyết định ứng!

      Cảnh giới này cũng chẳng thể nghĩ bàn, sao? Toàn th trụ, chúng ta nói trụth́ khái niệm này chẳng ràng như đức Phật đă nói, đức Phật nóipháp giới. [Thuật ngữ] pháp giới chứa đựng nhiều ư nghĩa hơn vũ trụ, lượng, biên! Chúng ta đọc phẩm Hoa Tạng Thế Giới [của kinh Hoa Nghiêm] mới biết thế giới to lớn. Những điều các nhà thiên văn đă nói vẫn chưa vượt ngoài thế giới Sa Bà. Trong toàn b vũ trụ, thế giới Sa một chấm rất nhỏ, nh tí, không đáng kể! trụ quá lớn, tự tánh quá lớn, trụ do tự tánh biến hiện. T tánh một, cho nên khắp pháp giới không giới một Thể. Quư vị hăy suy nghĩ, trong pháp giới, trong mỗi cơi Phật đều mười pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, sẽ không khởi tác dụng cảm ứng đạo giao cùng q vị, nhưng mười pháp giới th́ có. Chúng sanh trong mười pháp giới khởi tâm động niệm, mỗi niệm đều trọn khắp pháp giới, mỗi niệm xuất sanh tận, chứa đựng Không và Có, ba th ấy đều trọn khắp, tốc độ quá nhanh, đồng thời! Chúng ta dấy lên ư niệm, bất luận ư niệm ǵ, ư niệm ấy vừa khởi lên sẽ trọn khắp pháp giới, tự tánh thảy đều thâu nhận, nhận được tin tức ấy, nó s có phản ứng. Giống như tiến Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă làm thí nghiệm với nước. Trong thí nghiệm của ông ta, s phản ứng khá chậm chạp, c̣n phải mất thời gian mấy tiếng đồng hồ. Phản ứng của t tánh đối với hết thảy chúng sanh ngay lập tức, đồng thời .

      Nếu q vị thật sự biết đạo và chân tướng sự thật này, quư vị sẽ dấy ḷng cảm ơn chư Phật, Bồ Tát. sao? Chẳng thời khắc nào không chiếu cố quư vị; không thời khắc nào chẳng quan tâm quư vị, c̣n chu đáo hơn cha m lo lắng cho con cái. C sao nay chúng ta tr thành nông nỗi này? do chính chúng ta không quay đầu, không biết khéo học, tự làm tự chịu, cách nào đâu? Bất luận chúng ta đang trong đường nào, súc sanh đạo cũng thế, mà ngạ quỷ đạo cũng vậy, địa ngục đạo cũng vậy, đều quan tâm như nhau. vậy, th thật sự dấy ḷng cảm ơn Phật, Bồ Tát, quư vị sẽ thật sự học tập, ư nguyện chân thành học tập. thành ư, thành tựu cũng nhanh chóng! Ấn Quang đại dạy: Mười phần thành ư, sẽ được mười phần thu hoạch. Chưa học Hoàn Nguyên Quán, chúng ta vẫn chưa hiểu rơ khái niệm này; chưa hiểu rơ vẹn mười! Sau khi học Hoàn Nguyên Quán, chúng ta hiểu rất , s chân thật thể hiện ḷng cảm ơn đối với hết thảy chư Phật Như Lai, rồi quay lại áp dụng [ḷng cảm ơn ấy] đối với hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh vốn Phật, thật vậy, hết thảy chúng sanh vị lai Phật, câu này cũng là thật. Chắc chắn quư vị sẽ chuyển biến trong mỗi đời, cảnh giới trong mỗi đời sau cao hơn đời trước, nhất định sẽ có ngày đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, trở về tự tánh. Nói theo phương diện thế gian của nhân loại, thời gian này rất dài, nhưng nói theo cơi Thật Báo, bên ấy chẳng thời gian, cũng chẳng không gian. Không thời gian, sẽ chẳng trước sau; không không gian, sẽ chẳng có khoảng cách. Đây là diệu đế (chân lư mầu nhiệm) trụ sanh tâm.

      Tiếp theo đó, nói: Phù chúng sanh chi sanh diệt tâm, x xứ năng duyên, độc bất năng duyên ư Bát Nhă, tu vị đăng Biệt Giáo địa thượng chi Bồ Tát, phương năng khế nhập (Cái tâm sanh diệt của chúng sanh, ch nào cũng có th duyên, ch chẳng th duyên nơi Bát Nhă. Địa v cần phải đạt đến Sơ Địa trong Biệt Giáo tr lên mới ḥng khế nhập). Địa trong Biệt Giáo Trụ trong Viên Giáo, kinh Hoa Nghiêm gọi địa v này là Trụ Bồ Tát, lúc ấy mới thể khế nhập. sao? Ngài chẳng dùng sanh diệt tâm, chuyển bát thức thành tứ trí, tứ trí Bồ Đề tâm, chuyển thức thành trí. Tứ trí chân tâm, A Lại Da vọng tâm, chuyển vọng trở thành chân, trí huệ Bát Nhă trong tự tánh bèn mở mang, hiện tiền. Bát Nhă đức năng của t tánh. Q vị đă kiến tánh, đức năng trong tự tánh thảy đều hiện tiền, quư vị được th dụng. V́ vậy, phải là bậc Bồ Tát từ Sơ Tr tr lên, là Viên Giáo như trong kinh Hoa Nghiêm th́ mới thể khế nhập. Khế nhập đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Hôm nay lại hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

Tập 16

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải trang mười lăm, ḍng s sáu t dưới đếm lên, xem t câu th hai.

      Phù chúng sanh chi sanh diệt tâm, xứ xứ năng duyên, độc bất năng duyên ư Bát Nhă” (Cái tâm sanh diệt của chúng sanh, ch nào cũng có th duyên, ch chẳng th duyên nơi Bát Nhă). Đây nói về tâm phàm phu, chúng ta cũng gọi nó làtâm luân hồi”, chưa ra khỏi lục đạo luân hồi, nhưng tác dụng rất lớn, chỗ nào cũng có thể duyên, thể duyên quá khứ, cũng thể huyễn tưởng vị lai, cơi này hay phương khác nó đều thể tưởng. Tuy năng lực to dường ấy, kinh Phật bảo: Trong th́ nó có thể duyên tới A Lại Da, bên ngoài thể duyên không pháp giới, nhưng chẳng thể duyên tự tánh! Bát Nhă đức năng của tự tánh; do (sanh diệt tâm) chẳng th duyên t tánh, đương nhiên chẳng th duyên Bát Nhă. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều trí huệ đức tướng của Như Lai, điều này tâm phàm phu chẳng duyên được, tâm sanh diệt của chúng sanh chẳng duyên được! Đến khi nào mới có thể duyên được? Kiến tánh s duyên được. Minh tâm kiến tánh sẽ duyên được, đức năng và trí huệ trong tự tánh đều hiện tiền. Tu vị đăng Biệt Giáo địa thượng chi Bồ Tát, phương năng khế nhập (Địa v cần phải đạt đến Sơ Địa trong Biệt Giáo tr lên mới ḥng khế nhập). Địa trong Biệt Giáo Trụ trong Viên Giáo, kinh Hoa Nghiêm nói là t Trụ trở lên, c̣n Biệt Giáo từ Địa trở lên, Phật giáo Trung Quốc gọi người như vậy làđại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Khi ấy, người đó duyên tới [t tánh], mới thể khế nhập, khế nhập nhập tự tánh, đấy cũng bậc minh tâm kiến tánh như chúng ta thường nói.

      Ư trụ thời tức sanh tâm, ư sanh tâm thời tức trụ (lúc vô tr bèn sanh tâm, lúc sanh tâm bèn vô trụ). Đây là cảnh giới minh tâm kiến tánh, sanh tâm hiện ớng, sanh tâm ǵ? Sanh tâm độ chúng sanh. Điều th nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện chúng sanh biên thệ nguyện độ, Ngài sanh tâm như thế nào? Chúng sanh cảm, Phật bèn ứng. Bậc Địa Thượng Bồ Tát trong Biệt Giáo, Thập Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đều chân Phật, trong Lục Tức Phật của Thiên Thai đại , [những v này] được gọi là Phần Chứng Tức Phật, trên h là Cứu Cánh Tức Phật. Cứu Cánh Tức Phật chỉ một [địa vị], kinh Hoa Nghiêm gọi địa v ấy là Diệu Giác. Phần Chứng Tức Phật bốn mươi mốt địa vị, [tức là] Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa v này đều Phần Chứng Tức Phật, chân Phật, chẳng phải giả Phật. Phật trong mười pháp giới chẳng phải là chân Phật, là Tương Tự Tức Phật, rất giống, sao? Họ dùng A Lại Da, chưa chuyển thức thành trí. Chuyển thức thành trí chính là các v Địa Thượng Bồ Tát như đang nói đây, đă kiến tánh. Chưa chuyển thức thành trí chưa kiến tánh. Đây là một kiến thức thông thường trong Phật giáo, chúng ta phải biết. Ngài ứng hóa, do chúng sanh cảm Ngài bèn ứng. Nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy. Thuở ấy, tại Ấn Độ, Thích Ca Như Lai nên dùng thân Phật để độ, Ngài bèn hiện Ứng Thân Phật có ba mươi hai ớng, tám mươi thứ tùy h́nh hảo, hiện thân tướng này. Tại Trung Quốc, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại , xuất hiện vào thời Đường, cũng đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, chẳng khác ǵ Thích Ca Phật. Hiện ra cùng một cảnh giới, ch khác biệt là Ngài hiện thân tỳ-kheo, Thích Ca Mâu Ni Phật hiện thân Phật thân, tức thân ba mươi hai ớng, tám mươi tùy h́nh hảo. Huệ Năng đại tại Trung Quốc, nên dùng thân tỳ-kheo để độ người, nên Ngài hiện thân tỳ-kheo. Đúng vậy, c đời Ngài độ hơn bốn mươi vị tỳ-kheo thành Phật, minh tâm kiến tánh, dùng thân tỳ-kheo. Khi Ngài hiện thân, thưa cùng quư vị, Ngài trụ, trụ nghĩa là ǵ? Hiện thân tướng chẳng khác ǵ chúng ta, thân tướng ấy cũng sáng dậy, tối ngủ, cũng mỗi ngày phải ăn cơm, mặc áo, chẳng khác ǵ hết. Ch thật sự không giống nhau chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, Ngài không . Do Ngài không có, nên gọi là trụ. Ưng sở trụ nhi sanh kỳ tâm (Nên chẳng tr vào đâu mà sanh tâm), bậc Pháp Thân đại ứng hóa trên thế gian, trụ sanh tâm một, không hai, cùng một chuyện, ứng hóa trên thế gian. Nếu c̣n khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, chúng ta phải biết k ấy là phàm phu, tức phàm phu trong lục đạo. K khác nói quư vị là vị Phật nào đó hay Bồ Tát nào đó tái lai, chính ḿnh phải t hiểu:Giả trất, chẳng thật!Giả thể tu thành thật hay chăng? thể!

      đây, chúng ta phải biết: Danh hiệu của các v Phật cùng tên là vô lượng vô biên, danh hiệu của các v B Tát cùng tên cũng lượng biên. Quán Âm Bồ Tát chẳng phải một người, nếu quư vị nói là một th́ sai mất rồi! Giống như v thầy dạy học trong nhà trường, Quán Âm Bồ Tát giống như thầy dạy môn Ng Văn, đây, nếu tôi hỏi quư vị, trên thế giới này có bao nhiêu v giáo sư Ngữ Văn? Quư vị sẽ hiểu rơ ngay! Chúng ta phàm phu chấp trước, nói đến Quán Âm Bồ Tát bèn tưởng một người, sai rồi! Nhiều lắm, lượng, biên, [những người] tu pháp môn [t bi] này đều gọi là Quán Âm Bồ Tát; tu pháp môn Bát Nhă đều là Văn Thù Bồ Tát; tu mười đại nguyện vương đều Phổ Hiền Bồ Tát; tu hiếu thân tôn sư (hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính thầy) đều Địa Tạng Bồ Tát, các đồng học học Phật chớ nên không biết điều này. Trong s các v Bồ Tát nhiều ngần ấy, cảnh giới của các Ngài có giống nhau hay không? Chẳng giống nhau! Q vị thấy trong kinh Hoa Nghiêm, t địa v Sơ Tín tới địa v Đẳng Giác tổng cộng là năm mươi mốt giai cấp, v ấy là Quán Âm Bồ Tát thuộc địa v nào? Từ ba b kinh, chúng ta thấy Quán Âm Bồ Tát không cùng một địa vị. Trong kinh Hoa Nghiêm, Quán Âm Bồ Tát Đệ Thất Hồi Hướng Bồ Tát, tức là Đệ Thất Hồi Hướng trong Tam Hiền. Trong kinh Lăng Nghiêm, Quán Âm Bồ Tát Trụ Bồ Tát, vừa mới chứng đắc Viên Thông. Trong kinh Pháp Hoa, Quán Âm Bồ Tát Đẳng Giác Bồ Tát, khác nhau! vậy, nói Quán Âm Bồ Tát tái lai, th́ là Quán Âm Bồ Tát thuộc địa v nào? Nếu Quán Âm Bồ Tát thuộc địa vị Tín trong Thập Tín, đúng vậy, Ngài Quán Âm Bồ Tát, nhưng Ngài vẫn chưa thoát lục đạo luân hồi, công phu đoạn chứng chỉ bằng Tu Đà Hoàn, nhưng Ngài tu pháp môn Quán Âm, nhất định phải biết điều này. Đây là hỏi xem, trong năm mươi mốt địa vị, Ngài thuộc địa v nào, sai biệt rất lớn! Từ Trụ tr lên, đó địa v Phần Chứng, Pháp Thân đại sĩ, thật sự là Pháp Thân đại sĩ. Nếu Ngài thuộc các địa v trong Thập Tín, từ Tín tới Thập Tín, Ngài chưa ra khỏi mười pháp giới; nhưng do Ngài tu pháp môn này, chẳng th nói Ngài chẳng phải Bồ Tát.

      Nay chúng ta phát tâm nương theo kinh Lượng Thọ, nương theo Tịnh Độ (nay ngũ kinh) ngũ kinh nhất luận để tu hành, vậy th́ quư vị ai? Thưa quư vị, là A Di Đà Phật! Kinh này giảng rất ràng, [người tu pháp môn này] chẳng phải kẻ tầm thường, tổ đại đức nói như vậy. Quư vị chiếu theo pháp môn này, do Tịnh Tông lấy Qu làm nhân, nên pháp môn này rất đặc biệt, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng h lấy quả làm nhân, chỉ pháp môn này lấy quả làm nhân, quả ǵ? Quả A Di Đà Phật. Trong phần Khái Yếu, phần sau, Hoàng lăo trích dẫn nhiều kinh luận để giảng rơ chuyện này. V́ thế, người thông đạt kinh giáo sẽ hiểu rơ, chẳng chấp trước, liễu giải chân tướng sự thật. Thật sự thành tựu, nhất định Địa trong Biệt Giáo hay Sơ Tr trong Viên Giáo, mới được coi là thật sự thành tựu. Chưa đạt đến địa v ấy, s là Tương Tự Tức Phật. Lại thấp hơn một tầng nữa, vẫn chưa đạt đến Tương Tự, chúng ta phải gia công dụng hạnh. Nói theo th́ Danh T Tức Phật, chuyện này ai nấy đều b́nh đẳng, hữu danh thực, sao? Tự tánh của quư vị Phật; do vậy, trong kinh, đức Phật dạy: Hết thảy chúng sanh vốn Phật. Chúng ta bắt đầu học Phật, rất nghiêm túc học Phật, nhưng công phu chưa đắc lực, khi ấy, gọi là Danh T Tức Phật, hữu danh thực, Danh T Tức Phật! Công phu đắc lực là Quán Hạnh Tức Phật. Địa v Quán Hạnh khá lắm, trong pháp môn Tịnh Độ, đạt đến địa v Quán Hạnh được gọi công phu thành phiến. Quán Hạnh công phu thành phiến, quyết định sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng . Tương Tự th́ sao? Tương Tự sẽ không sanh vào cơi Đồng Cư, mà sanh vào cơi Phương Tiện Hữu , đó Sự nhất tâm bất loạn. nhất tâm bất loạn sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, đó chính là các địa v được nói đến đây: Địa Thượng trong Biệt Giáo, Thập Tr Pháp Thân Bồ Tát trong Viên Giáo. Mỗi tầng đều hiểu rơ ràng, chúng ta tiến lên từng cấp, tiến cao hơn, đó là đúng. Nâng cao hơn, nâng cao bèn buông xuống được, nhất định phải noi theo th t thuận này: Trước hết, phải buông chấp trước xuống. Quư vị nói trước hết ta buông khởi tâm động niệm xuống ư? Chẳng th nào! Buông khởi tâm động niệm xuống chính là địa v Diệu Giác, chẳng phải Phần Chứng, đó viên măn chứng đắc, ta chưa làm được đâu! Ch nên không biết điều này!

Hiện thời c̣n có vấn đề, ta vẫn chưa th hiểu rơ vấn đề này! Chúng sanh cảm, Phật ứng, đó là Phật thuộc giai tầng nào ứng? Nay chúng ta biết, trong cơi Thật Báo, từ địa v Sơ Tr trong Viên Giáo [trở lên] bèn năng lực này: Nên dùng thân Phật để độ người, bèn hiện thânba mươi hai ớng, tám mươi tùy h́nh hảođể ứng. Nhà Phật nói tới Bổn Tích nhân duyên, Bổn của Ngài Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, hiện Tích Phật ớng, tứcba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Nếu nên hiện thân Đẳng Giác Bồ Tát, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Đẳng Giác Bồ Tát; hoặc cũng nên dùng thân Phật để đắc độ, Ngài cũng hiện thân Phật. Vị Phật này Đẳng Giác, vị Phật kia Trụ Bồ Tát, c̣n vị viên măn rốt ráo. Viên măn rốt ráo v Phật do t tánh hiện ra trong cơi Thường Tịch Quang, tức là A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó địa v Diệu Giác, chẳng phải Đẳng Giác, đó vị Phật rốt ráo viên măn. Thích Ca Mâu Ni Phật tới th hiện trong thế giới này, thưa quư vị, Ngài là địa v viên măn, chẳng phải là Đẳng Giác Bồ Tát, sao? Trong kinh Phạm Vơng, Ngài nói rất hay, Phật không vọng ngữ, nói toàn những lời thật. Ngài tới thế giới này, th hiện thân Phật trong nhân gian, lần này lần thứ tám ngàn, chẳng phải một lần, hai lần, mà là tám ngàn lần! Khi nào Ngài đến? Chúng sanh cảm, Ngài bèn đến. Chúng sanh không cảm, Ngài sẽ không ứng, cảm ứng đạo giao mà! Chính Ngài tuyệt đối chẳng có ư nghĩ: Chúng sanh rất khổ, ta phải đến giúp đỡ họ. [Nếu có ư nghĩ như thế], sẽ chẳng phải Phật, sao? Khởi tâm động niệm! Bồ Tát khởi tâm động niệm, không phân biệt, chấp trước, nhưng tập khí phân biệt, chấp trước. Bồ Tát thuộc địa v Thập Tín không phân biệt, chấp trước, nhưng có tập khí phân biệt, chấp trước. T Trụ trở lên, không phân biệt, chấp trước, khởi tâm động niệm cũng không có, nhưng tập khí khởi tâm động niệm. Bốn mươi mốt tầng cấp này là do tập khí dày hay mỏng khác biệt, chúng ta phải hiểu . Chẳng thể nói một vị Bồ Tát này Đẳng Giác, chẳng phải vậy, có năm mươi mốt tầng cấp mà! Nói một vị Phật Diệu Giác ư? Không nhất thiết! Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại đều năng lực hiện thân Phật. Quư vị nghĩ tới v Phật nào, Ngài bèn hiện ra v Phật y. V Phật nào có duyên với quư vị, Ngài bèn hiện ra v Phật y. Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, chớ nên không hiểu đạo này! Tuy hiện thân, chắc chắn Ngài không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. đây, phải đặc biệt chú ư vọng tưởng, đó khởi tâm động niệm, đấy ǵ? Bậc Pháp Thân Bồ Tát, Tr trong Viên Giáo chẳng khởi tâm, chẳng động niệm.

      vậy, chúng ta trong thế gian này, tự ḿnh phải thường suy nghĩ, chúng ta vẫn khởi tâm động niệm, c̣n phân biệt, c̣n chấp trước, đấy có phải là mê khi cáchm hay chăng? Nóimê khi cách ấmcũng có lư! sao? Tất c hết thảy chúng sanh chẳng một ai không khi cách ấm. Nếu Phật, Bồ Tát tới ứng hóa trong thế gian này, c̣n khi cách ấm hay chăng? Chúng ta thể suy nghĩ: Trong mười pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật thuộc tứ thánh pháp giới th là khi cách ấm, sao? Họ chưa kiến tánh. Chưa kiến tánh, nhưng trí huệ, đức năng, thần thông của những người tu hành ấy lớn hơn chúng ta, chúng ta chẳng th sánh bằng! Các Ngài thể vào lục đạo độ chúng sanh hay chăng? Có! Những k hữu duyên trong lục đạo, k hữu duyên nghĩ tới các Ngài, các Ngài cũng cảm, sẽ ứng đến. Nhưng ứng thân của các Ngài trong thế gian này là tiểu thánh, chẳng phải đại thánh, Bồ Tát, chẳng phảiMa Ha Tát. Chư vị phải biết: Ngoài mười pháp giới cơi Thật Báo Trang Nghiêm, [những v Bồ Tát trong cơi ấy] gọi là Ma Ha Tát; chúng ta gọi [những v Bồ Tát trong] tứ thánh của mười pháp giới Bồ Tát. Do vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát [có nghĩa như thế đó]. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă phó chúc những Đại Bồ Tát phải thường hộ niệm Tiểu Bồ Tát, v́ Tiểu Bồ Tát c̣n khi cách ấm. H cũng tâm từ bi, ứng hóa trong thế gian này, có khi h cũng b hoặc; nhưng họ rất thông minh, những v Đại Bồ Tát bên cạnh chiếu cố họ, khi nào duyên đă chín muồi, ch điểm họ, h bèn tỉnh ngộ. Hễ tỉnh ngộ bèn giác; sau khi giác, đúng là tối thiểu cũng buông phân biệt xuống. Đối với cảnh giới, tuy là kiến thức thông thường, ph biến, ch nên không biết. Không biết th́ khi chúng ta cũng bị trong ấy; [do vậy], biến thành chướng ngại, chính ḿnh nuốn nâng cảnh giới lên s khó khăn, thậm chí tạo thành chướng ngại cho văng sanh trong tương lai. Giảng tới đây, chẳng th không rườm lời nói thêm mấy câu!

      Kỳ địa tiền chư hiền, nhưng đả thành lưỡng tiệt (những v Bồ Tát trước khi chứng Sơ Địa, vẫn tách thành hai). Đối với ch Địa Tiền này, trong phần trước đă nói rất ràng, đây là Biệt Giáo, chẳng phải là Viên Giáo. [Địa Tiền nói trong câu này] Địa Tiền của Biệt Giáo, tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng trong Biệt Giáo, [c̣n gọi là] Tam Hiền Bồ Tát. Tam Hiền Bồ Tát của Biệt Giáo chưa thoát khỏi mười pháp giới, vẫn trong mười pháp giới, cũng tức là nói hchưa phá căn bản minh. V́ thế, các v hăy xem, điều ǵ b tách thành hai? Nhất thời sanh tâm, lánh nhất thời trụ (thời này sanh tâm, thời khác vô trụ). H chẳng có cách nào, đấy cũng như trong kinh Đại Thừa đă nói: H vẫn chưa nhập pháp môn Bất Nhị! Tánh - Tướng chẳng hai, chúng sanh Phật chẳng hai, động - tĩnh chẳng hai, h hoàn toàn chưa làm được, chưa đạt tới cảnh giới ấy! Khả kiến phàm phu tuyệt phận (có th thấy phàm phu chẳng có phần), phàm phu thuộc lục đạo, làm sao có th hành được? Làm sao có thể sánh với người ta?

      Kim thử Tịnh Độ pháp môn, giáo chúng sanh tŕ danh niệm Phật, linh chúng sanh tức niệm ly niệm, tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu, xảo nhập niệm, tức phàm thành thánh(nay pháp môn Tịnh Độ này dạy chúng sanh tŕ danh niệm Phật, khiến cho chúng sanh do niệm mà ĺa niệm, ngầm thông với Phật, thầm hợp đạo mầu, khéo nhập vô niệm, t ngay nơi phàm mà thành thánh). Đây là ch mầu nhiệm của pháp môn này, thật sự mầu nhiệm! Tôi không biết các quư vị đồng học thế nào, nhưng nếu c đồng học chú tâm một chút, tâm địa vọng niệm ít một chút, tôi nghĩ các quư vị sẽ phát hiện một hiện tượng, đó chính là pháp duyên giảng kinh Lượng Thọ đặc biệt thù thắng. Chính tôi đă suốt đời thể nghiệm, tôi đă giảng rất nhiều bộ kinh luận, nhưng pháp duyên thù thắng nhất chính là kinh Di Đà kinh Lượng Thọ. Nói chung là có duyên cớ, thính chúng đặc biệt đông, pháp môn thù thắng, chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ đạo tràng, chẳng gi tí nào! Pháp môn tốt lành, nhưng người thật sự nhập cảnh giới này vẫn thiểu số. Nói theo lư luận, Thiện Đạo đại nói, Thiện Đạo đại A Di Đà Phật tái lai, lời của Thiện Đạo đại do chính miệng A Di Đà Phật nói ra, pháp môn này vạn người tu, vạn người đến. sao người tu pháp môn này chưa thể thành tựu? Phật không vấn đề, pháp môn cũng chẳng có vấn đề, kinh điển cũng không vấn đề, vấn đề do người tu hành mà có! Người ấy bụng d vướng mắc c đống chuyện, chẳng buông xuống được. Tức niệm, kẻ ấy chẳng ĺa niệm, tức niệm A Di Đà Phật; ly niệm, như trong phần trước đă nói, niệm một câu A Di Đà Phật này để thay thế, trừ khử trăm ngàn vạn ức vọng tưởng, tạp niệm, đó là thật sự niệm Phật. Một mặt niệm A Di Đà Phật, nhưng trong ấy vẫn xen tạp vọng tưởng, tạp niệm công phu niệm Phật bị phá hoại; cho nên quư vị chẳng có cách nào! Tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu. Quư vị thấy [lời chú giải] giảng rơ ràng lắm, minh bạch lắm, quư vị phải do niệm mà ĺa niệm, niệm A Di Đà Phật, trong tâm chỉ một niệm A Di Đà Phật này, chớ nên xen tạp vọng niệm vào đấy. vậy, Phật, Bồ Tát, tổ đại đức dạy chúng ta đừng hoài nghi, đừng xen tạp, đừng gián đoạn, niệm như vậy quư vị sẽ thể tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu, sao? Quư vị niệm Phật đă niệm đến mức nhất tâm. Sự nhất tâm có địa v bằng với tầng cấp A La Hán và Bích Chi Phật. nhất tâm có cảnh giới giống như bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại t Sơ Tr tr lên trong Viên Giáo. Q vị thể niệm tới nhất tâm bất loạn. Hơn nữa, phương pháp này đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, đáng tin cậy, chẳng phiền phức tí nào, chẳng thông Giáo cũng không sao! Do vậy,nhiều người chẳng biết chữ, chưa từng học kinh giáo, niệm một câu A Di Đà Phật này mấy năm, đúng là ư niệm ǵ cũng mất, niệm tới mức nhất tâm bất loạn, nhưng chính người y hoàn toàn không biết, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sanh vào cơi Phương Tiện, người như vậy rất nhiều. Người sanh vào cơi Thật Báo l ít hơn một chút, ch người sanh vào cơi Phương Tiện rất nhiều. Họ đă b được chấp trước, chẳng chấp trước hết, c đơn giản là kinh dạy quư vị chấp trước danh hiệu, chấp tŕ danh hiệu, chấp chấp trước, tŕ nắm vững vàng, nắm chặt, tức là [giữ chặt] một câu Phật hiệu này. Ngoài một câu Phật hiệu này ra, tạp niệm cũng đều không có, vọng tưởng cũng đều không có, đó là niệm Phật công phu thành phiến. Công phu thành phiến sẽ sanh vào cơi Đồng Cư. Sanh trong cơi Đồng Cư cũng thành thánh nhân. Thế giới Cực Lạc không phàm phu, đều thánh nhân, do phàm thành thánh!

      Cố Sớ Sao viết (Do vậy, sách S Sao nói), [tức là] Liên Tŕ đại nói: Việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn (vượt ba A-tăng-kỳ trong một niệm, bằng với chư thánh do một lời). [Vượt] tam kỳngười nào vậy? Nay chúng ta hiểu rất ràng, theo kinh Hoa Nghiêm đă dạy, từ Trụ tới Đẳng Giác bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, các Ngài đoạn hết minh, nhưng tập khí minh vẫn c̣n. Tới Đẳng Giác mới đoạn hết tập khí minh, cần thời gian bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Vượt thoát ba đại A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm chính là do một tiếng Phật hiệu này bèn vượt qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Tề chư thánh (bằng với chư thánh): Chư thánh bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại . Phiến ngôn (một lời) là bốn ch A Di Đà Phật, chính là một một câu này. Bằng ǵ? Bằng với Pháp Thân, chẳng phải là hạng Bồ Tát thông thường. Pháp Thân đại Ma Ha Tát, c̣n thù thắng hơn pháp môn này? T́m chẳng ra! Do vậy, chúng ta học kinh này, quư vị c̣n có vấn đề nữa chăng? Quư vị học kinh này, mười phương ba đời hết thảy chư Phật hộ niệm quư vị, tuy quư vị chẳng thấy các Ngài, các Ngài thấy quư vị. Trước đây, chúng ta c̣n nghi vấn, nay chẳng c̣n nghi vấn, chúng ta tin tưởng, khẳng định rồi! sao? Sách Hoàn Nguyên Quán đă giảng ba th trọn khắp, bất luận một mảy lông nơi chánh báo hay một vi trần trong y báo, s dao động của chúng trọn khắp pháp giới trong mỗi niệm, niệm niệm xuất sanh tận, niệm niệm hàm dung Không và Có; vậy, chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác, mười phương chư Phật đều thấy. Chúng ta chân tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, hết thảy chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Phước báo này như thế nào? Ba đời chư Phật hợp nhau cùng nói vẫn chẳng th giải thích rơ ràng, v́ phước báo y quá to! Câu danh hiệu này, trên thực tế tổng cương lănh của hết thảy các kinh điển do mười phương ba đời chư Phật đă tuyên dương, cũng chỗ quy y của hết thảy các kinh điển. Do vậy, những điều vừa nói trên đây chẳng phải do một ḿnh c Hoàng Niệm Tổ nói, Hoàng lăo cũng chỉ tiếp nhận, vâng theo lời lịch đại tổ đại đức đă nói, xứng tánh cực đàm, giảng đến rốt ráo viên măn chính là một câu danh hiệu này.

      Chí tai diệu dụng, bất khả nghị (diệu dụng cùng tột thay, chẳng th nghĩ bàn), đă đến tột đỉnh! Kỳ tha pháp môn năi chánh nhập sanh, cố vi nan hành đạo (Những pháp môn khác nhập thẳng vào Vô Sanh, nên là đạo khó hành), chánh nhập ǵ? Thực hiện từng bước một, tiến lên theo từng cấp bậc một, tiến cao lên dần, giống như năm mươi mốt địa v được nói trong kinh Hoa Nghiêm, đó là chánh nhập, thời gian rất dài. Kim thử tịnh nghiệp, xảo nhập sanh, cái dị hành đạo (Nay Tịnh nghiệp khéo nhập Vô Sanh nên là đạo d hành), quá xảo diệu (khéo léo, tuyệt diệu), chẳng phải là tiến lên từng cấp một, mà bất tri bất giác viên măn, đạt tới tột đỉnh, do vậy, nó là đạo d hành. Niệm Phật pháp môn năi tu hành chi kính lộ (pháp môn Niệm Phật đường tắt trong s tu hành), kính lộ (徑路) đường gần; đường tắt. Nhi tŕ danh nhất pháp hựu vi tứ chủng niệm Phật trung chi kính lộ, cố xưng vi kính trung chi kính (nhưng tŕ danh lại là đường tắt trong bốn món Niệm Phật, nên được gọi là đường tắt nhất trong các con đường tắt), đường gần nhất trong các con đường gần. Trong bốn món Niệm Phật này, Quán Kinh có nhắc tới [ba món], Quán Kinh giảng Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, và T Danh Niệm Phật, đều những pháp chúng ta thường tu. Một loại khác chúng ta không làm được là Thật Tướng Niệm Phật. Khi nào tu Thật Tướng Niệm Phật? Từ Trụ tr lên tu Thật Tướng Niệm Phật. Vừa rồi, trong phần trích dẫn, c Hoàng đă nói t Sơ Địa trong Biệt Giáo tr lên, tức là t Sơ Tr trong Viên Giáo tr lên, niệm Phật khi ấy Thật Tướng Niệm Phật, chẳng phải T Danh Niệm Phật. Trong bốn món Niệm Phật, T Danh đường tắt. Do vậy, theo kinh Hoa Nghiêm, bậc đă chứng đắc từ Trụ trở lên phải tu pháp môn Niệm Phật, cách niệm Phật của các Ngài thuộc loại Thật Tướng Niệm Phật.

      Hựu bổn kinh bất xướng nhất tâm bất loạn (Lại nữa, kinh này chẳng đề xướng nhất tâm bất loạn), xướng () đề xướng, kinh Lượng Thọ không đề xướng nhất tâm bất loạn, sao? Nhất tâm bất loạn quá khó, đúng là chẳng dễ làm được. Sự nhất tâm bất loạn là đă đoạn Kiến phiền năo, chứng nhập bằng quả A La Hán. nhất tâm bất loạn đă đoạn Trần Sa phiền năo, phá Minh phiền năo, [cảnh giới y] bằng với minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, chẳng phải chuyện dễ. vậy, kinh này chẳng nói tới nhất tâm bất loạn. Trực phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật vi Tông (thẳng thừng lấy phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật làm Tông). Phát Bồ Đề tâm, một b chuyên niệm, chẳng phải là nhất tâm bất loạn. Một b chuyên niệm th́ chúng ta làm được, một phương hướng, một mục tiêu, chuyên niệm A Di Đà Phật sẽ làm được! Nhất tâm bất loạn chẳng d ǵ làm được,phải đoạn phiền năo. Khuất phục phiền năo th́ s khuất phục ấy chẳng phải nhất tâm bất loạn; đoạn hết phiền năo mới nhất tâm bất loạn, quư vị biết nhất tâm bất loạn quá khó. Nhưng kinh Di Đà nóinhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo! Kinh Di Đà bộ kinh này cùng một bộ, nội dung như nhau; quư vị phải biết: Theo bản dịch kinh A Di Đà của Huyền Trang đại th́ là nhất tâm hệ niệm, chẳng phải nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là do La Thập đại dịch, Ngài dịch cũng rất có lư! Công phu của chính ḿnh nhất tâm hệ niệm, lâm chung Phật đến tiếp dẫn, trước hết, Phật quang chiếu tới quư vị; khi Phật quang chiếu gội, được Phật lực gia tŕ, khiến cho công phu của quư vị được nâng lên gấp bội. Q vị thật sự đạt được nhất tâm hệ niệm, đó công phu thành phiến, ngay lập tức bèn được nâng cao lên thành nhất tâm bất loạn. vậy, La Thập đại hoàn toàn chẳng dịch sai, đích xác là [hành nhân khi văng sanh] được bổn nguyện oai thần từ bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà gia tŕ; nhưng đối với kẻ sơ học chúng ta mà nói, do rất nhiều người thấy chnhất tâm bất loạnmà cảm thấy pháp môn này vẫn chẳng dễ tu, không dám tu pháp môn này, ngă ḷng! Thấy Phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, bèn nghĩ chính ḿnh vẫn có thể, điều này c̣n thể làm được. Bồ Đề tâm sẽ được giải thích t mỉ trong phần sau. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại giảng rất tuyệt: Q vị thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, tâmy thượng Bồ Đề tâm. Cổ nhân chưa h nói, Ngẫu Ích đại nêu ra cách giải thích như thế khiến cho chúng ta nghĩ đến rất nhiều ông lăo bà c chẳng biết chữ, cũng chưa từng học hành, mà cũng chưa nghe Phật pháp, người ta dạy h niệm một câuA Di Đà Phật, họ bèn thật thà niệm, niệm tới cuối cùng c̣n thể đứng văng sanh, biết trước lúc mất, tướng lành hy hữu. Dường như h chẳng phát Bồ Đề tâm! Dường như trực tâm, thâm tâm và đại bi tâm được nói trong Bồ Đề tâm họ chẳng phát, c sao h niệm Phật bèn thể văng sanh? Họ chẳng biết phát Bồ Đề tâm là ǵ, nhưng quư vị quan sát k lưỡng, s thấy trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm họ đều trọn đủ. Họ bất tri bất giác phát ra, đă phát, nhưng chính ḿnh vẫn không biết, nhất tâm nhất ư cầu sanh Tịnh Độ, mong thấy A Di Đà Phật, tâm chân thành trọn đủ. Thâm tâm thanh tịnh b́nh đẳng giác, họ có, tuy chưa viên măn, nhưng họ từ bi tâm!

      Đản năng phát tâm chuyên niệm, giai khả văng sanh. Cố nh vi minh xác giản yếu (Ch cần có th phát tâm chuyên niệm, đều được văng sanh. Do vậy, pháp này càng là rơ ràng, xác thực, đơn giản, tóm tắt), minh minh bạch, xác () chân thật, [giản yếu là] đơn giản, tóm tắt. Quư vị thấy pháp môn này, thị cố thử kinh xưng vi Tịnh Tông đệ nhất kinh, lưu truyền tới khi Phật pháp trên thế gian này diệt sạch, tới cuối cùng, hăy c̣n bộ kinh này tồn tại trên thế gian một trăm năm, từ ch này, chúng ta thể suy ra s thù thắng của bộ kinh điển này. Nhân kỳ vi trực tiệt trung chi trực tiệt, phương tiện trung chi phương tiện. Tuyệt đăi viên dung, bất khả nghị(do v́ pháp này thẳng gọn nhất trong các pháp thẳng gọn, thuận tiện nhất trong các pháp phương tiện, dứt bặt đối đăi một cách viên dung, chẳng th nghĩ bàn). Đây là lời thật, chẳng gi tí nào! Hết thảy chúng sanh trong lục đạo thể gặp gỡ [pháp môn này], chắc chắn đắc độ trong một đời này, nhất định vượt thoát lục đạo luân hồi. Không chỉ vượt thoát lục đạo, người y c̣n vượt thoát mười pháp giới, điều này thù thắng chẳng th tưởng tượng được!

      Nhật Bản Tịnh Tông đại đức thôi trọng thử kinh quá ư ngă quốc (Các bậc đại đức trong Tịnh Tông Nhật Bản đề cao kinh này c̣n hơn nước ta), đúng vậy! Trong Đại Tạng Kinh Nhật Bản, [các tác phẩm] nghiên cứu chú giải kinh Lượng Thọ rất phong phú. Nh́n lại Trung Quốc, các v tổ đại đức từ xưa chú giải kinh này rất ít, chỉ mấy loại. Do nguyên nhân ǵ? sĩ Bành Tế Thanh nói rất khéo, do kinh này không có bản tốt nhất! Không ít vị đại đức đă khẳng định câu nói này của ông Bành! Ông ta nói rất hay, qu thật là v́ kinh này chưa có bản tốt nhất. Đọc trọn c năm bản dịch gốc vào thời c là chuyện chẳng d dàng cho lắm! V́ khi ấy, kinh sách quá ít, chẳng phải ấn loát, mà là chép tay. Ngay c Vương Long Thư thân phận như vậy, là một v trưởng gi giàu sụ, vẫn chưa thấy trọn năm bản dịch gốc, ch thấy bốn loại. Ông ta chưa được thấy bản dịch đời Đường, tức bản Lượng Thọ Như Lai Hội trong kinh Đại Bảo Tích; do vậy, bản hội tập của ông ta chỉ gồm bốn bản dịch gốc, thật đáng tiếc! Bởi lẽ, trong Vô Lượng Thọ Như Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích rất nhiều phần đặc sắc mà bốn bản kia không có! Nhưng người Nhật Bản hữu tâm, khi tới Trung Quốc du học, đối với những bản kinh sách tốt đẹp đều thâu thập toàn b đem về. Chính chúng ta đă coi nh chuyện này, chẳng thu thập, bị người Nhật Bản thu thập đem đi. nhiều thứ từ Nhật Bản truyền ngược tr về [Trung Quốc], điều này nh vào công đức của cư sĩ Dương Nhân Sơn. Vào những năm cuối đời Thanh, cư sĩ Dương Nhân Sơn tham tán tại Đại S Quán Nhật Bản. Ông ta đối với Phật pháp hết sức lưu ư, do vậy, t́m ṭi tại Nhật Bản, rất nhiều th đă b thất truyền c mấy trăm năm tại Trung Quốc, trong mục lục [Đại Tạng Kinh] có ghi, nhưng chẳng thấy sách đâu, tại Nhật Bản th́ thấy. Do vậy, ông ta bèn dựa theo mục lục để t́m tại Nhật Bản, t́m ṭi rất nhiều, t́m được chẳng ít, đem trở v Trung Hoa; đặc biệt những chú s của kinh luận Pháp Tướng Duy Thức.

Tiếp đó, những phần được trích dẫn đều chú giải của người Nhật Bản. Nhật Hắc Cốc Đại Kinh Thích vân (B Đại Kinh Thích của sư Hắc Cốc[2] người Nhật), Đại Kinh Thích tác phẩm giải thích kinh Lượng Thọ, trong đó có một đoạn như sau: Ư văng sanh giáo, hữu căn bản, diệc hữu chi mạt (đối với giáo pháp văng sanh, có pháp là căn bản, cũng có pháp cành nhánh), văng sanh niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, người Trung Quốc gọi văng sanh giáo Tịnh Độ Tông. nói [văng sanh giáo] căn bản cũng cành nhánh. Thử kinh danh căn bản, kinh danh chi mạt (kinh này là căn bản, những kinh khác là cành nhánh), kinh chuyên giảng Tịnh Độ gồm ba bộ, kinh Lượng Thọ căn bản, kinh Quán Lượng Thọ Phật kinh A Di Đà cành nhánh. Trong khi đức Phật giảng kinh, thuyết pháp đă giảng kèm thêm Tịnh Độ, giảng pháp môn niệm Phật cầu sanh Di Đà Tịnh Độ, đại khái t hơn một trăm tới gần hai trăm bộ kinh, đương nhiên những kinh ấy làcành nhánh của cành nhánh. Hựu thử kinh danh chánh văng sanh giáo, danh bàng văng sanh giáo. Hựu thử kinh danh văng sanh cụ túc giáo, tha kinh danh văng sanh bất cụ túc giáo (Hơn nữa, kinh này là chánh văng sanh giáo, những kinh khác là bàng văng sanh giáo. Lại nữa, kinh này gọi là văng sanh giáo trọn đủ, những kinh khác gọi là văng sanh giáo chưa trọn vẹn), đây cách nói khái luận của người Nhật Bản đối với bộ kinh này. Những người Nhật Bản này đều tới Trung Quốc du học vào thời đại Tùy - Đường, thân cận Trí Giả đại sư, hoặc thân cận Thiện Đạo đại sư, nhiều vị đều học tṛ của Thiện Đạo đại . Thuở Thiện Đạo đại tại thế đă giảng bộ kinh này, các v ấy đều đích thân nghe giảng nơi pháp ṭa của Ngài.

      Cứ thượng chi nghĩa, Tịnh Độ Tông thí như Diệu Cao phong đầu, nhi bổn kinh chánh như phong đầu chi đảnh tiêm. Bổn kinh v đương lai nhất thiết hàm linh, giai y thử pháp nhi đắc độ thoát (theo nghĩa trên đây, Tịnh Độ Tông ví như đỉnh núi Diệu Cao, mà kinh này lại như chóp đỉnh của đỉnh núi. Kinh này s làm cho hết thảy các hữu t́nh trong tương lai do nương theo pháp này bèn được độ thoát), nhận định này cùng một ư nghĩa như tôi đă nói trong phần trước, hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới đều nương vào pháp môn này để độ thoát luân hồi, vượt thoát mười pháp giới. Thị tri lợi tế chúng sanh, thử kinh vi tối. Tŕ danh chi pháp, ám hợp đạo diệu, tối dị hành cố (do vậy, kinh này lợi lạc chúng sanh lớn nhất; pháp tŕ danh thầm hợp đạo mầu, d hành nhất). Trong thời đại này, cuộc sống của chúng ta cùng gian nan, chướng duyên nghiêm trọng khôn sánh, bản thân chúng ta phải suy nghĩ, trong thời gian ngắn ngủi, tạm b của kiếp sống này, chúng ta phải làm như thế nào để nắm chắc s thành tựu chân thật cho chính ḿnh? sao? Chính ḿnh chẳng thành tựu, s chẳng thể lợi lạc chúng sanh. Các bậc đại thánh đại hiền trong pháp thế gian và Phật pháp, không vị nào chẳng dạy chúng ta: Thành tựu chính ḿnh rồi mới có th thành tựu người khác. Chính ḿnh chẳng thành tựu, nếu muốn hoằng pháp lợi sanh, đức Phật thường nói: hữu thị x (chẳng có l ấy). Đúng là ḷng th́ có thừa, nhưng sức chẳng đủ, quư vị chẳng làm được. Nhất định trước hết phải thành tựu chính ḿnh. Tứ Hoằng Thệ Nguyện nguyên tắc chỉ đạo tốt nhất, phải phát nguyện lớn: Chúng sanh biên thệ nguyện độ, phải độ tận hữu t́nh trong chín pháp giới, đấy là phát đại Bồ Đề tâm. Quư vị độ h bằng cách nào? Quư v chưa độ chính ḿnh được, s chẳng thể độ người khác. Phải t độ ra sao? Đầu tiên đoạn phiền năo, phiền năo tận thệ nguyện đoạn. Kiến phiền năo tận, Trần Sa phiền năo tận, Minh phiền năo tận, đoạn bằng cách nào? Ngay trong cuộc sống hằng ngày, học ǵ? Nguyên tắc ch đạo chung là học chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, đó tổng cương lănh, tổng nguyên tắc. Đối với tế hạnh trong cuộc sống hằng ngày, Đại Thừa nói tám vạn tế hạnh, Tiểu Thừa nói ba ngàn oai nghi, từng ly từng tí trong cuộc sống, đức Phật dạy chúng sanh đừng chấp trước từng điều nh nhặt một!

      Bắt đầu học t đâu? Trong Phật giáo, Tịnh nghiệp học nhân bắt đầu t bằng tam phước; nếu quư vị chưa th tự độ, sẽ chẳng th có phước báo. vậy, m kinh Phật ra, thiện nam tử, thiện nữ nhân, thiện căn, phước đức, kinh Di Đà kinh nói: Bất khả thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc(Chẳng th do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà sanh v cơi ấy). Thiện căn và phước đức học từ Tam Phước, đó là phước đức chân chánh. Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng, quư vị thấy phước tu từ đâu? Từ hiếu dưỡng phụ mẫu. Kẻ chẳng hiếu thảo với cha m s chẳng có phước, niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh, kẻ không biết tôn trọng đạo cũng chẳng thể văng sanh! Thân mạng của quư vị do cha m mà có, huệ mạng của quư vị do thầy mà có. Q vị thấy hai câu này được đức Phật xếp trước hết.Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp. vậy, có những đồng học hỏi tôi:Thưa pháp sư, v́ sao thầy phải đề xướng Cảm Ứng Thiên? sao đề xướng Đệ Tử Quy? Những th ấy không phải của Phật giáo!Tôi bảo họ:Những th ấy đều của Phật giáo[H căi]:Trong Phật giáo không nói!Ai bảo không nói? Điều th nhất trong Tịnh nghiệp tam phước hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng, quư vị coi th Đệ Tử Quy giảng [những điều ấy] hay không? Có! Làm thế nào để thực hiện hai câu ấy? Thực hiện Đệ Tử Quy, quư vị sẽ thực hiện được [hai câu ấy]. Từ tâm chẳng giết, quư vị thi hành Cảm Ứng Thiên liền làm được câu này. Ba câu trên đây là sở, tiếp theo là tu Thập Thiện nghiệp mới thể làm được. sao chưa làm được Thập Thiện nghiệp? Do chưa làm được ba câu trên. Ba câu trước đó chính Đệ Tử Quy Cảm Ứng Thiên, chưa làm được! V́ vậy, quư vị chưa làm được Thập Thiện nghiệp, [như vậy th́ đề xướng Đệ T Quy và Cảm Ứng Thiên] c̣n sai nữa hay không? Tôi thấy chẳng sai! Do đó, thật sự học Phật, nay chúng ta phải nương theo lời giáo huấn của Ấn Quang đại ; Ấn Quang đại dạy chúng ta phải vun bồi vững vàng cội r bằng Cảm Ứng Thiên. Căn bản th nhất là Cảm Ứng Thiên, giáo dục nhân quả, quư vị thật sự liễu giải đạo nhân quả, liễu giải chân tướng sự thật, sẽ không chỉ chẳng dám làm ác, ngay c ác niệm cũng chẳng dám dấy lên. V́ sao? Động một niệm bất thiện, ba thtrọn khắpđều , trọn khắp pháp giới, ai không biết? Khắp không, trọn pháp giới, tất c hết thảy Phật, Bồ Tát, A La Hán thảy đều biết. Chẳng thể gạt ai! [Có muốn] gạt ai cũng chẳng được! Một niệm của quư vị trọn khắp pháp giới, một niệm xuất sanh tận. Xuất sanh tận ǵ? Thiện niệm sanh ra thiện công đức, ác niệm sanh ra những điều ác độc, báo ứng. Không dám động niệm th́ c̣n dám làm nữa ư? So với luân , đạo đức, so với bất c loại giáo dục nào, cũng đều hữu dụng hơn! Có rất nhiều kẻ học hành rất giỏi, nhưng bất hiếu với cha mẹ, phản thầy, nghịch đạo, h dám làm, do nguyên nhân ǵ vậy? Cổ nhân bảo là lợi dục huân tâm (m mắt v́ lợi lộc, dục vọng). Họ b danh lợi trước mắt hoặc, biết , nhưng vẫn cố phạm. Biết sai lầm, vẫn muốn làm; nhưng nếu k ấy hiểu nhân quả, sẽ chẳng dám làm, sao? Những ǵ q vị đạt được trong hiện tiền là một chút danh lợi tẹo, trong tương lai phải tr giá quá to, [biết như vậy] liền chẳng dám làm nữa!

Nói tới chỗ này, hai hôm nay, có đồng học đưa cho tôi xem một quyển sách, Khải Tát quân đoàn Đông chinh chi (bí ẩn v đoàn quân chinh phục phương Đông của Caesar). Hai ngàn năm trước, đại đế Khải Tát (Caesar) của đế quốc La nghe nói Trung Quốc rất giàu có, muốn chiếm lănh Trung Quốc, phái mười vạn đại quân, thật sự tiến đến vùng Cam Túc của Trung Quốc, toàn quân thảm bại. Thống soái cầm đầu đoàn quân này là con trai th ba của Khải Tát, tức tam vương tử. Gần đây, chuyện này do một qu hồn dựa vào một bé gái nói ra, có nhiều người tới đó điều tra, thấy là chuyện thật, chẳng giả, lời qu nói là chuyện có chứng cứ. Đă hai ngàn năm rồi, bọn họ cũng rất may mắn, gặp được Bồ Tát, nhà Phật đúng là t bi, Bồ Tát bảo họ:Nơi này của Trung Quốc, chẳng phải của quư vị. Q vị đến đây làm ǵ?H thưa:Chúng con không biết. Tôi đọc tới câu nói này của Bồ Tát, liền lập tức nghĩ tới người Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, chiến tranh tám năm, cuối cùng đầu hàng, đó như Bồ Tát đă nói:Trung Quốc chẳng phải của quư vị, quư vị không phước báo này, q vị tới làm ǵ?” Quư v thấy đó: Làm đế vương, quư vị có phước báo lớn cỡ nào, lănh thổ to cỡ nào, bao nhiêu nhân dân, trong mạng đă định sẵn! Không phước phần ấy, quư vị muốn xâm lược người khác, nếu thắng trận, thật sự thôn tính được, nói chung, quư vị cũng chẳng thể chết tốt lành, thiếu phước báo mà! Đúng là Khải Tát chẳng chết an lành, ông ta chết tại Trung Quốc. Lịch sử chép ông ta b người khác mưu sát, nhưng kết qu là mưu sát k thế thân, chẳng phải nhà vua, mà là một viên quan hầu cận rất trung thành. Người b giết mặc y phục nhà vua bên ngoài, nên người ta tưởng nhà vua bị giết chết. Trong cơn hỗn loạn, vua đào tẩu, cũng trốn tới Trung Quốc, chết Cam Túc. Cớ ǵ phải vậy? Đúng là Nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định (miếng ăn, hớp uống, không ǵ chẳng được định sẵn), ch nên cưỡng cầu. Cưỡng cầu, cướp đoạt lấy, hay lén trộm lấy, đều do trong mạng quư vị sẵn có, quư vị [phải phí uổng tâm cơ làm chuyện đó] oan uổng hay chăng? Quư v không cần đoạt, chẳng cần phải gi tṛ trộm cắp, lâu đạt được hơn một chút th́ bất quá một hai năm s có, c ǵ phải nóng ḷng? Tạo tội nghiệp ấy, thật đáng sợ! Sau khi xem xong tác phẩm này, [tôi nghĩ] nếu một k lănh đạo đất nước sau khi đọc xong s chẳng dám phát động chiến tranh. Đó chẳng phải là chuyện tốt, tạo lượng biên tội nghiệp.

      vậy, tổ Ấn Quang suốt đời đề xướng nhân quả, th nêu ra rất nhiều ví dụ, những tác phẩm được Ngài nêu lên đều của Đạo Gia, như Ngọc Lịch Bảo Sao chẳng hạn, Ấn Quang đại đề xướng lưu thông cuốn sách ấy. Ngài dạy người học Phật phải đọc Cảm Ứng Thiên, Ngài có lư. Đó là s thật, tuyệt đối chẳng phải tín, chẳng phải Ngài dùng các tác phẩm đó để hù dọa con người! Thiện thiện quả, ác ác báo. Hiện tại, tạo tác cái nhân ác nghiệp, trong đời quá khứ, quư vị tích lũy đại phước, tu đại thiện, do quư vị làm ác nên phước báo đă có trong mạng b suy giảm với một mức độ lớn, c̣n một chút phước thừa. Hưởng hết phước thừa, nghiệp báo của quư v s hiện tiền; chẳng chống đỡ được! Cho đến lúc ấy, hối hận chẳng kịp! vậy, con người quyết định chớ nên làm chuyện thiếu lương tâm. Trong lúc quá nhiều tai nạn hiện thời, hăy ghi nhớ: Hiếu thuận cha m là phước báo bậc nhất. Chỗ nào có lỗi với cha mẹ, phải thật sự sám hối, phải tôn trọng đạo, phải yêu quư sanh mạng [muôn loài], trọn ch nên sát sanh. Một con muỗi, một con ruồi cũng là một sanh mạng, đừng xem nhẹ! Q vị giết hại nó, trong tương lai nó s báo thù, phiền phức ấy rất to!

      Độ chính ḿnh phải được thực hiện t bộ kinh này. Tịnh nghiệp tam phước nguyên tắc chỉ đạo tối cao, chúng ta nhất định phải thực hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, đầy đủ những điều kiện này mới thể học Phật. Phước th hai là thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi, quư vị chính thức trở thành đệ tử Phật môn. Lại nâng cao hơn nữa là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả. Tôi đă giảng v tin sâu nhân quả rất nhiều, chẳng phải nhân quả thông thường, mà nhân quả y chính niệm Phật nhân, thành Phật quả. Nếu chúng ta muốn thành Phật th́ phải niệm Phật, niệm Phật nhất định thành Phật. Đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả, chúng tôi dùng tám ch để giải thích câu khuyến tấn hành giả: Thân hành, ngôn giáo, giúp đỡ người khác, giáo hóa người khác, trước hết, chính ḿnh phải làm được rồi mới dùng lời l để dạy người khác; giảng kinh, giáo học, tám ch ấy! Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giảng kinh, dạy học; nh́n lại những v t sư đại đức từ xưa, chẳng v nào không phải là suốt đời đều giảng kinh, dạy học! Ngẫu Ích đại văng sanh lúc Ngài năm mươi mấy tuổi, quư vị thấy Ngài sáng tác mấy chục tác phẩm, trước tác vô cùng phong phú, mỗi ngày đều viết lách. V́ sao phải kh s viết lách như thế? Chẳng t́m được truyền nhân, bèn dùng phương pháp này để truyền pháp cho đời sau. Người hữu duyên đời sau đọc đến, s nương theo phương pháp lư luận do Ngài đă nói để học tập, thành tựu, truyền lại cho người đời sau. Trong nhiều sáng tác ngần ấy, thù thắng nhất, được Ấn Quang đại tán thán nhất là b Di Đà Kinh Yếu Giải. Từ lời bạt, chúng ta thấy: Thuở ấy, Ngẫu Ích đại viết b Yếu Giải nhằm giải thích đơn giản [kinh Di Đà], viết xong trong thời gian chín ngày. Phân lượng không nhiều lắm, đúng Yếu Giải, giải thích quá hay! T Ấn Quang đă tán thán: cổ Phật tái lai viết một bản chú giải kinh Di Đà khác, cũng chẳng thể hay hơn được. Q vị thấy Ấn Quang đại tán thán tới tột bậc. Ấn Quang đại Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, trong phần trước tôi đă thưa cùng quư vị, năm mươi mốt địa v đều Đại Thế Chí Bồ Tát, Ngài thuộc địa v nào chúng ta không biết, Ngài phải Pháp Thân đại hay chăng? Nếu Pháp Thân đại sĩ, sẽ chẳng khi cách ấm, chính Ngài hiểu rành rẽ. Nếu Đại Thế Chí Bồ Tát thuộc địa v Thập Tín s khi cách ấm. Ngài tu pháp môn Thế Chí Bồ Tát này, khi văng sanh thế giới Cực Lạc, s sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm là chuyện rất có kh năng! Ngài sanh vào cơi Phương Tiện Hữu là điều chắc chắn, từ địa v Tín sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới đều thuộc cơi Phương Tiện Hữu . Cơi Phương Tiện Hữu cũng ba bậc chín phẩm.

      Chúng ta hiểu rơ những đạo này, liễu giải chân tướng sự thật này, s chẳng mê hoặc tí nào! V́ vậy, phải tự độ th́ mới có thể giúp đỡ người khác. Chính ḿnh chẳng làm được, giảng cho k khác nghe, người ta đâu có tin, chẳng năng lực nhiếp th chúng sanh! Do vậy, chính ḿnh nhất định phải làm được, phải quên đi bản thân. Bồ Tát thuộc địa v Tín đă đoạn Thân Kiến, chẳng chấp trước thân này ta, thân cái ta có, bèn tự nhiên toàn tâm toàn lực phục vụ hết thảy chúng sanh khổ nạn. Lục đạo toàn chúng sanh khổ nạn, phải biết điều này, sao? Thiếu trí huệ, khởi Hoặc, tạo nghiệp, th báo, khổ chẳng th nói nổi! Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, cứu vớt tai nạn, dùng ǵ? Dùng giáo học. Con người tánh vốn lành, quư vị chẳng dạy nên h mới mê. Mê rồi mới tạo nghiệp. Tạo nghiệp bất thiện, chịu kh báo trong tam đồ. H đă giác ngộ, s trọn chẳng tạo ác nghiệp. vậy, khổ lạc thuộc về quả báo, quả ắt nhân, nhân giác hay mê. Phật giúp đỡ hết thảy chúng sanh ĺa kh được vui, chẳng dốc sức nơi quả, mà t nơi nhân. Đức Phật dùng giảng kinh, dạy học, thân hành, ngôn giáo, giúp đỡ chúng sanh phá , khai ngộ. Phá mê, bèn thoát khổ; giác ngộ, lạc bèn hiện tiền. Đức Phật dùng phương pháp này, Bồ Tát, tổ sư, đại đức đều dùng phương pháp này, phương pháp này hay lắm, thật s hiệu quả. Quá khứ hữu hiệu, hiện tại vẫn hữu hiệu. Trong q khứ, chúng tôi đă làm thí nghiệm tại Thang Tŕ thuộc huyện Lô Giang, tỉnh An Huy, Trung Quốc để coi xem lời dạy của cổ thánh tiên hiền ích ǵ cho hiện tại hay không, làm thí nghiệm ba năm. Chúng tôi t́m một nhóm giáo viên, khuyến khích, c vũ h làm Bồ Tát, làm thánh nhân, dùng thân nh, ngôn giáo để mở lớp, dạy học. Đối tượng ai? Đối tượng bốn vạn tám ngàn cư dân trong tiểu trấn ấy, nam, nữ, già, trẻ các nghề nghiệp cùng nhau học, thật sự hữu dụng! Chúng tôi vốn nghĩ phải mất hai ba năm mới có th thấy thành quả, không ngờ trong ba bốn tháng, thành quả lớn lao, khiến chúng tôi cảm thấy cùng kinh ngạc, nhân dân dễ giáo hóa như thế. Không ai dạy, h được dạy, s quay đầu, lương tâm tỏ lộ, chứng tỏ tánh con người vốn lành. Hai câu đầu trong Tam T Kinh ngàn vạn phần xác đáng: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện. Giáo dục thánh hiền giáo dục xứng tánh, con người bổn tánh vốn lành, h được kêu gọi bèn tỉnh giác nhanh dường ấy!

      Hiện thời, nhiều người nói tới tai nạn, các đồng học học Phật phải biết: Phật pháp nói tai nạn hay không? Phật pháp nhắc tới tai nạn, nhưng chẳng nghiêm trọng dường ấy, tận thế là chuyện chẳng th xảy ra! Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật một vạn hai ngàn năm. Chiếu theo cách nói cổ xưa của Trung Quốc th́ k t khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ tới nay đại khái hơn ba ngàn lẻ ba mươi năm. Quư vị thấy [pháp vận là] một vạn hai ngàn năm, phía sau c̣n chín ngàn năm nữa, thời gian rất dài. Do vậy,tận thế do người ngoại quốc nói, người Trung Quốc chẳng nói, mà càng chẳng phải do Phật pháp nói. Thanh b́nh, loạn lạc, tai họa, do nguyên nhân nào gây ra? Tại Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền đă nói rất nhiều, nói rất khéo, có thật, chẳng giả, đó là ǵ? Đó là cảm ứng! Con người thiện tâm, thiện hạnh, cảnh duyên sẽ là thiện cảm. Cảnh hoàn cảnh vật chất, duyên hoàn cảnh nhân s (quan h giữa con người với nhau), cũng th nói là hoàn cảnh nhân sự vật chất chẳng có ǵ bất thiện. Nếu con người dùng ác để cảm, hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân s sẽ cảm ứng ác tướng! [C nhân] nêu ra nguyên lư này! Chúng ta muốn cứu văn hội, cứu văn địa cầu, phải nên làm như thế nào? Đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Dùng phương pháp ? Phương pháp chúng ta dùng hiện thời là giảng kinh, dạy học. Chúng ta dùng Internet, dùng TV để khuếch đại hiệu quả dạy học, mong mỏi các đồng học chúng ta đối trước Internet hay TV đều phải duy tŕ. Bản thân chúng ta thật sự phát tâm, tuân theo giáo huấn trong kinh điển để sốt sắng học tập, bắt đầu học t hiếu thuận cha mẹ, tôn sư, trọng đạo, phát tâm từ bi, yêu quư hết thảy sanh mạng, chẳng sát sanh. Tốt nhất là thể phát tâm ăn chay, ăn chay có lợi ích lớn nhất đối với sức khỏe.

      Tôi hai mươi sáu tuổi học Phật, biết đối với ẩm thực, điều được Phật pháp nhấn mạnh chính là vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm (bảo v sanh mạng, bảo v tánh đức, bảo v chân tâm), tôi bội phục tới cùng cực. Người thế gian ch biết v sinh, bảo vệ lẽ sống, nhưng đối với tánh của chính ḿnh th́ sơ sót, càng thiếu sót trong việc bảo v ḷng yêu thương của chính ḿnh. Trước khi tôi học Phật, đi học tại Nam Kinh, tôi nhà một bạn học. Gia đ́nh người bạn học này tuy chẳng phải đại gia đ́nh, nhưng anh ta có đông anh ch em, có năm hay sáu anh ch em, cha, mẹ, c̣n có bà nội. Nhưng trong gia đ́nh ấy có ba tôn giáo, đa nguyên văn hóa: Bà nội niệm Phật, trong nhà có tiểu Phật đường, niệm Phật; cha anh ta theo đạo Hồi, m anh ta theo Cơ Đốc Giáo. V́ vậy, các tr nh nói chung đều theo mẹ. Tôi sống trong một gia đ́nh như thế, mới biết đạo Hồi chú trọng v sinh trong ẩm thực, lại c̣n coi trọng v tánh. Phàm những động vật nào tánh t́nh chẳng tốt đẹp, ông ta không ăn, có chọn lựa. Con vật nào tánh t́nh rất ôn thuận, thiện lương ông ta mới ăn. Phật giáo c̣n tiến hơn nữa, chọn thức ăn chay, nhằm bồi dưỡng tâm từ bi. Do vậy, tôi cảm thấy phương cách ăn uống này rất viên măn, học Phật chưa đầy nửa năm tôi bèn chọn cách ăn chay. Thu ấy, tôi chẳng biết ǵ v nhân quả, mà v́ tin tưởng cách ăn ấy là v sinh, vệ tánh, vệ tâm, cách ấy rất viên măn. Đúng lành mạnh! Tôi ăn chay tới năm nay là năm mươi chín năm, sang năm vừa đúng một giáp, thân th ngày càng khỏe mạnh, chẳng yếu hơn ai! Điều này chứng tỏ ăn chay có lợi, ăn chay qu thật là khỏe mạnh trường thọ. Nếu q vị yêu quư sinh mạng, cớ sao chẳng ăn chay? Tôi làm chứng cho mọi người ăn chay là tốt lành! Con người phải gi tấm ḷng tốt, nói lời tốt, làm chuyện tốt, làm người tốt, tiêu chuẩn của s tốt lành Đệ Tử Quy của Nho gia, Cảm Ứng Thiên của Đạo gia, Thập Thiện Nghiệp Đạo của Phật gia.

      Gần đây nhất, tôi cũng nghe đồng học nói, trong ngoài nước qu thật có những người dùng danh nghĩa Tịnh Không để bịa đặt, gây chuyện, làm những chuyện phi pháp, tôi mong các đồng tu phải có tâm cảnh giác. C đời tôi, chuyện ǵ cũng chẳng tham dự, tôi thường bảo mọi người cả đời tôi đều là b động, trước nay chưa h t làm chuyện ǵ, chưa hề! Toàn là b động. Người khác tới t́m tôi, tôi cảm thấy chuyện ấy đối với hội, đối với đại chúng lợi th́ tôi cũng vui vẻ tham gia. Chủ động làm chuyện tốt, tôi chưa h làm, sao? Làm chuyện tốt phải có phước báo, tôi không phước báo! Tôi đă nói với quư vị, tôi suốt đời một k cô quạnh, mọi người thường chung với tôi đều hiểu rơ chuyện này. Người làm chuyện này n phải có phước báo, dưới tay người y có rất nhiều nhân viên lo liệu công việc, và cũng tài lực th́ mới có th làm được việc! Hai th này tôi đều thiếu, tiền cũng không có, mà người làm việc cũng thiếu luôn! Trơ trọi một ḿnh giảng kinh, dạy học. Trừ chuyện này ra, bất c chuyện ǵ cũng chẳng liên can đến tôi. Tôi đă nghĩ tới rất nhiều chuyện, chẳng hạn như viện Dưỡng Lăo, giáo dục văn hóa truyền thống, thôn Di Đà, tôi nghĩ rất nhiều, nhưng tôi có mong làm hay chăng? Tôi không mong làm, sao không mong làm? Không người, chẳng có tiền, làm bằng cách nào? Chỉ nói suông thôi! Nhưng tôi nói những chuyện ấy, nói ra, người nói tâm, người nghe hữu ư, có rất nhiều người sau khi nghe xong, thật sự muốn làm. Được! Tôi tán thành, ch như vậy thôi! Người ta nghĩ sao? Đó là do pháp Tịnh Không làm, sai rồi, tôi là người nói vô tâm, người nghe hữu ư. Người nghe thích làm [chuyện đó] đến báo cho tôi biết, c̣n cầm những bản kế hoạch cho tôi xem. Tôi gật đầu, được, chuyện tốt có lợi ích lớn cho hội và quốc gia th́ phải nên làm, chẳng phải do tôi làm.

      Chuyện Thang Tŕ nói thật ra do các bằng hữu thuộc Liên Hiệp Quốc ép làm. Thế giới động loạn, quá nhiều vấn đề, làm thế nào để hóa giải xung đột? Làm thế nào để khôi phục hội an định, thế giới ḥa b́nh? Chúng tôi báo cáo những giáo huấn của c thánh tiên hiền Trung Quốc trong đại hội Liên Hiệp Quốc, h nghe xong, rất vui thích, sau đó, t́m tôi nói chuyện phiếm:Pháp sư Tịnh Không, ông nói tuyệt lắm, rất hay, chúng tôi đều ưa thích, nhưng đó là chuyện lư tưởng, chẳng th làm được!Chuyện này khiến tôi khó xử, họ chẳng có ḷng tin, phải thế nào th́ những người ngoại quốc ấy mới có ḷng tin? Nhất định phải thực hiện, quư vị làm ra cho người ta thấy, h s bội phục, chẳng nói ra nói vào nữa! Tôi bị ép buộc như vậy, quư vị thấy tôi không ai, ch kiếm được hai người, một là cô giáo Dương Thục Phân, hai là thầy giáo Thái L Húc. Các v ph lăo, bằng hữu quê nhà giúp đỡ, tôi nói được rồi, bọn h giúp sức, hai người các vị đi làm! Quư vị thấy hai người y, chiêu m một nhóm giáo viên gồm ba mươi bảy người. Chúng ta một cộng đồng tưởng như thế, yêu cầu các giáo viên học theo thánh hiền, học theo Phật, Bồ Tát, tự ḿnh nêu gương tốt cho người khác thấy. Những giáo viên này rất tuyệt diệu, tôi đảnh l họ, đúng là khó có, nêu tấm gương tốt nhất, cảm động người nơi ấy, trong ba bốn tháng đạt được hiệu qu tốt đẹp dường ấy!

      Do vậy, tháng Mười năm 2006, tôi tham gia hội ngh do t chức Giáo Dục Văn Hóa Khoa Học Liên Hiệp Quốc (UNESCO) t chức, do tổng b Ba Lê triệu tập ch tŕ, tôi c̣n được coi là một trong những người tổ chức. Tôi đem thí nghiệm tại Thang Tŕ báo cáo trước đại hội trong tám tiếng đồng hồ. Bọn h nghe xong, kinh ngạc, đại diện của một trăm chín mươi hai quốc gia đều muốn tới thăm và khảo sát Thang Tŕ, thật chẳng d dàng, làm thành công! Nay mọi người tin tưởng, những th của c nhân Trung Quốc vẫn c̣n hữu hiệu. vậy, ba năm hoạt động của chúng ta trong nước cũng tạo ra ảnh hưởng rất lớn. Nay quốc gia chính thức xếp Đệ Tử Quy khóa tŕnh trong nhà trường, chuyện tốt đẹp mà! Nhưng muốn an định hội, muốn cứu vớt thế giới này, vẫn phải dốc sức thúc đẩy toàn dân học tập, nam, nữ, già, trẻ, các ngành ngh trên c nước cùng nhau học. Tôi nghĩ ch cần năm mươi, sáu mươi giáo viên, lợi dụng ǵ để dạy? Lợi dụng đài truyền h́nh quốc gia, lợi dụng mạng Internet, mỗi ngày hai mươi bốn gi giảng chẳng gián đoạn. Giảng suốt một năm, xă hội Trung Quốc sẽ an định. Giảng ba năm, thế giới này s thái b́nh, chuyện ǵ cũng đều chẳng có. Đó ǵ? Người có đại phước báo sẽ làm, tôi ch nói, tôi chẳng th làm. Tôi chẳng có một ai hết. Hiện thời, Thang Tŕ đă giải tán, Thái Lễ Húc cũng đi rồi, Dương cũng đi, hiện thời ch có ḿnh tôi trơ trọi. Do vậy, nếu quư vị hỏi tôi có phương pháp hay không? Tôi biết đôi chút, có th đưa ra một chút kiến nghị, quả thật là chẳng năng lực để làm. Hiện thời, tuổi cũng đă cao, ch mong giảng k càng kinh Hoa Nghiêm kinh Vô Lượng Th một lượt. Sau khi giảng viên măn hai b kinh này, nếu tôi c̣n có th mạng, s giảng kinh Di Đà một lần nữa, giảng cặn k một lượt. Những điều khác không phải chuyện của tôi. Bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp cũng không phải là chuyện của tôi, tôi chẳng có tinh lực này. Nếu tôi năm mươi, sáu mươi tuổi th́ c̣n thể, [nay đă] tám mươi bốn tuổi rồi, chẳng th làm chuyện này nữa! vậy, trao cho tôi điều kiện tốt đẹp nào, tôi đều cự tuyệt, đều chẳng cần đến. vậy, các đồng học cũng chẳng cần phải tặng tiền cho tôi. Tặng tiền cho tôi, đương nhiên tôi thay quư v làm chuyện tốt, thay quư v in kinh, thấy những nơi làm công tác giáo dục cần tiền, thực hiện giáo dục truyền thống, tôi sẽ thay quư vị chuyển tiền sang những nơi đó. Bản thân tôi th ǵ cũng chẳng cần nữa. Tôi thưa cùng mọi người, người đă trên tám mươi tuổi, hằng ngày mong văng sanh, chuyện này là thật , chẳng giả. Tôi thường nói, đều lời thật. Th mạng của tôi tới ngày nào? Cho tới hôm nay, ngày hôm nay sẽ chết, c̣n không bỏ xuống được? C̣n chuyện ǵ để th làm? Chẳng có chuyện ǵ hết, ch niệm Phật, cầu A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Mỗi ngày đều ngày cuối cùng của tôi. V́ vậy, điều ǵ tôi cũng chẳng nghĩ tới, sống rất thoải mái, sống t tại lắm. Ngoại trừ giảng kinh đọc kinh, vui thích chuyện này chẳng chán!

Do vậy, kết luận cuối cùng: Thị tri lợi tế chúng sanh, thử kinh vi tối. Tŕ danh chi pháp, ám hợp đạo diệu, tối dị hành cố(do vậy, kinh này lợi lạc chúng sanh lớn nhất; pháp tŕ danh thầm hợp đạo mầu, d hành nhất). Hoàng lăo nói rất hay, quá khó có, chúng ta chẳng thể không bội phục. Đoạn cuối cùng: Đại thánh thùy từ, đặc lưu thử kinh (đức đại thánh r ḷng Từ, đặc biệt lưu lại kinh này), đại thánh Thích Ca Mâu Ni Phật, Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật một vạn hai ngàn năm, kinh diệt cuối cùng là kinh này. Kinh vân (kinh nói), tức là kinh này [có nói], độc lưu thử kinh (riêng lưu lại kinh này). Trong phẩm bốn mươi lăm, đoạn như sau: Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận. Ngă từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh, chỉ trụ bách tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị kinh giả, tùy ư sở nguyện, giai khả đắc độ (trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết. Ta do ḷng từ bi thương xót, riêng lưu lại kinh này tồn tại trong thế gian một trăm năm. Nếu có chúng sanh gặp được kinh này, tùy ḷng mong muốn đều được độ thoát). Đương lai tương lai, một trăm năm cuối cùng trong thời Mạt Pháp, kinh Phật hoàn toàn diệt sạch trong thế gian này. sao bị diệt? Thưa quư vị, chúng sanh thiếu phước, lắm k tạo ác, chẳng có người tu phước. Nếu c̣n có người tu phước, kinh đạo vẫn c̣n thấy trên thế gian. sao đời đời kiếp kiếp con người tạo ác? Chúng ta hăy nh́n lướt qua lịch sử, người thời nay tạo ác quả thật nhiều hơn c nhân. Lứa tuổi chúng tôi đă đích thân thấy điều này, Trung Quốc nói ba mươi năm một thế hệ, tôi gần như đă thấy ba thế hệ. Ba thế h ấy như thế nào? Thế h sau chẳng bằng thế h trước! T nay về sau, nếu quư vị chú ư một chút, lắng ḷng suy nghĩ, vào ba mươi năm sau hội này có t́nh h́nh ra sao? Quư v có dám nghĩ tới hay chăng? Quư vị thấy ǵ? Quư vị thấy những k tr tuổi hiện thời, t mười lăm tuổi tới hai mươi tuổi, chúng nó nghĩ ǵ, nói những ǵ, làm những ǵ? V́ sao tr thành t́nh trạng như thế? Chúng ta đă b sót giáo dục của cổ thánh tiên hiền, những đứa tr ấy hiện thời được giáo dục bởi những ǵ? TV, Internet!

      Tôi ngoại quốc lâu ngày, các trường học tại ngoại quốc, học tṛ lớp Một đă s dụng computer, nối vào Internet. Trên Internet có rất nhiều thứ, [chúng nó] xem vui sướng chẳng biết mệt. Khi ng cũng để [laptop] trong mền để xem, cha m c̣n rất đắc ư, con ta rất siêng năng! Chúng nó coi ǵ vậy? Coi bạo lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối. Chúng nó tiếp nhận những th ấy. Do đó, chẳng biết hiếu dưỡng phụ mẫu, chẳng biết yêu thương anh em. Hai mươi năm sau, chúng nó là thành phần trung kiên trong xă hội. Nếu bọn chúng làm lănh t trên chánh trường, c̣n thể làm những ǵ? Càng nghĩ càng đáng sợ. Người trong thế h này c̣n có th khống chế bản thân, chẳng phát động chiến tranh hạch nhân, có dám nói thế h kế tiếp [sẽ chẳng phát động] hay không? Chẳng dám nói! S rằng hiện thời, những đứa tr chơi game điện tử, chơi tṛ giết người đă thành thói quen, đến lúc đó, nếu nó làm Tổng Thống, tới khi nắm quyền, s có th lấy vũ khí hạch nhân ra chơi. [Chúng nó nghĩ] đâu phải là chiến tranh giết người, đó là tṛ chơi; nhưng tṛ chơi ấy s khiến thế giới bị hủy diệt. Hủy diệt thế giới cũng tṛ chơi, làm thế nào bây giờ? Tôi cũng gặp một s v lănh đạo quốc gia, tôi kiến ngh với bọn h hăy hủy sạch vũ khí hạch nhân, tiêu hủy vũ khí hóa học; trong tương lai, bọn chúng s tưởng là tṛ chơi, chẳng đến nỗi có những món vũ khí mang tính hủy diệt như vậy. Điều này có lợi cho xă hội và thế giới, chẳng cần phải duy tŕ [những món vũ khí ấy]. Nếu thế giới thật sự hiểu nhân quả báo ứng, chúng ta biết lực chưa thể giải quyết vấn đề, chỉ dùng phương pháp ḥa b́nh thật sự mới ḥng giải quyết vấn đề, dùng lực giải quyết vấn đề sẽ tạo thành lượng biên tội nghiệp. Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.

 

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 8 hết



[1] Chùa Quang Hiếu vốn tên Chế Chỉ, vốn nền trường học của Ngu Phiên, được khai sơn vào khoảng năm 233. Chùa trở thành đạo tràng hoằng pháp của pháp Ấn Tông trong niên hiệu Nghi Phụng đời Đường Cao Tông. Chùa đổi tên thành Báo Ân Quảng Hiếu Tự vào năm Thiệu Hưng 20 (1150) đời Cao Tông nhà Nam Tống, về sau rút gọn tên gọi đổi Quảng thành Quang, nên chùa tên Quang Hiếu Tự như hiện thời. Chùa Quang Hiếu cũng nơi Tể Tướng Pḥng Dung giúp pháp Bát Lạt Mật Đế nhuận sắc bản dịch kinh Lăng Nghiêm khi ông bị Tắc Thiên đày xuống Khâm Châu (nay huyện Khâm Châu tỉnh Quảng Đông).

[2] Hắc Cốc Thượng Nhân chính tôn xưng của ngài Pháp Nhiên, sáng tổ Tịnh Độ Tông (Jōdo Shū) Nhật Bản. Ngài Pháp Nhiên (Honen, 1133-1212) sinh huyện Mỹ Tác Quốc (Mimasaka), pháp húy Nguyên Không (Genkū). c̣n được gọi Cát Thủy Thượng Nhân hoặc Viên Quang đại sư. Sau khi thân phụ mất, năm chín tuổi, xuất gia theo tông Thiên Đài (Tendai, tức Thiên Thai Tông Nhật Bản), sau đó, tu tại tổng bản sơn Tỷ Duệ (Hiei). Đến năm 24 tuổi, vẫn chưa cảm thấy thỏa măn với giáo nghĩa Thiên Đài, rời Tỷ Duệ đến tham học tại Đông Đại Tự Hưng Phước Tự, nhưng vẫn chưa cảm thấy đă t́m được con đường giải thoát đúng đắn cho bản thân. Trở về Tỷ Duệ, vùi ḿnh trong Tàng Kinh Các, cuối cùng đă đọc Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ của ngài Thiện Đạo, giải ngộ, chân thành đề xướng tŕ danh niệm Phật. Rời Tỷ Duệ, ḥa ḿnh vào tầng lớp b́nh dân, giảng dạy giáo nghĩa Tịnh Độ, thu hút các tín đồ, kể cả các quan to trong triều. Điều này gây nên sự đố kỵ lo ngại của giới tăng lữ thuộc tông Thiên Đài sợ mất ảnh hưởng quyền lực đối với triều đ́nh. Các tăng như Minh Huệ (Myōe) Trinh Khánh (Jōkei) đă công khai chỉ trích Pháp Nhiên giáo. Đă thế, những tín đồ, môn đệ của ngài Pháp Nhiên trong nhiệt t́nh truyền giáo đă hiểu lệch lạc khái niệm Tha Lực nên không tuân thủ giới luật, kịch liệt chỉ trích những tông phái khác bằng luận điệu khiên cưỡng, bôi nhọ, dẫn đến phản ứng mạnh của tông Thiên Đài. Cuối cùng dưới sức ép của các tăng lữ chùa Hưng Phước, Thiên Hoàng Hậu Điểu (Go-Toba) đă hạ lệnh nghiêm cấm niệm Phật, bắt Pháp Nhiên các đệ tử đi lưu đày. Măi đến năm 1211, lệnh cấm mới được băi bỏ Pháp Nhiên được trở về Kinh Đô (Kyoto), nhưng tịch vào năm sau. Một đệ tử của Thân Loan (Shinran) đă thành lập một tông phái Tịnh Độ mới Tịnh Độ Chân Tông (Jōdo Shinshū).